“Trái bom thơ”
Giai đoạn những năm cuối thập kỷ 70 và nửa đầu thập kỷ 80, Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng khi vận hành nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Điều đáng nói là, trước tình hình như vậy, có không ít những ý kiến “ngược chiều”, muốn cảnh báo với Đảng và Nhà nước về những nguy cơ tiềm ẩn, những vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra thì tất cả đều bị phê phán và quy chụp, đánh giá tư tưởng và phẩm chất chính trị không tốt. Bởi vậy có hiện tượng nhiều người không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám gọi đúng tên sự thật và càng không dám nói lên sự thật để khắc phục, sửa chữa. Đó là thời kỳ của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ, duy ý chí.
Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của tác giả Phạm Thị Xuân Khải ra đời trong những suy tư về một thời kỳ nóng bỏng như thế. Lúc viết bài thơ, bà là sinh viên năm 2 của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tuy nhiên, trước đó bà đã là cán bộ cơ sở, tận mắt chứng kiến những khó khăn chồng chất, tình cảnh cơ cực, khốn khó của người lao động. Những bất cập trong cơ chế, chính sách khiến cho sự khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Phạm Thị Xuân Khải đã quyết định phải làm một điều gì đó để góp phần tạo nên sự thay đổi, thúc đẩy sự đổi mới, tìm ra lối thoát, một hướng đi mới cho cuộc sống của nhân dân.
Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” ra đời, đề cập một cách trực diện hiện thực cuộc sống, những tiêu cực trong xã hội đương thời, trực tiếp phê phán những cán bộ biến chất, thoái hoá, trù dập người ngay thẳng. Đến nay sau 38 năm đọc lại vẫn còn giật mình bởi dũng khí “dám nhìn thẳng, nói thật” của nữ nhà thơ:
“Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt
Có học hành, lại phải sống cầu an
Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”
Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”
…
“Đồng chí không bằng đồng tiền
Bằng lòng vẫn hơn bằng cấp”
…
“ Có mắt giả mù, có tai giả điếc
Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung
Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ
Cùng chí hướng sao bầy mưu chia rẽ?
Tham quyền cố vị
Sợ trẻ hơn già
Quên mất lời người xưa:
“Con hơn cha là nhà có phúc”

Khi bài thơ đến với bạn đọc, hàng triệu độc giả xa gần tìm cho bằng được tờ báo có bài thơ ấy. Báo không đủ bán, mua không được báo thì bạn đọc chuyền tay nhau, đọc chép bài thơ vào sổ tay. Từ người trẻ đến thế hệ cán bộ lão thành, những cán bộ cấp cao của Đảng cũng tìm gặp nhà thơ.
Lúc đó bài thơ được ví như “trái bộc phá” gây rung chấn dữ dội để rồi làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tác giả. Từ chỗ yên bình đến trùng trùng sóng gió. Từ chỗ là cán bộ nguồn đến việc phải tự nguyện nghỉ việc nhà nước, luôn sống trong sự cảnh giác, nỗi cô đơn, sự căng thẳng, áp lực kéo dài.
Thế nhưng, phải mãi đến năm 2006, sau 20 năm trời im lặng, tác giả Phạm Thị Xuân Khải mới có thể chính thức công bố toàn bộ “hồ sơ” của sự kiện qua cuốn sách “Mùa xuân nhớ Bác” – tự sự của tác giả”.
Trong cuốn sách, tác giả lần lượt giải đáp những vấn đề xung quanh bài thơ như tại sao lại chọn tên bài thơ là “Mùa xuân nhớ Bác”, tại sao lại chọn công bố bài thơ vào một thời điểm nhạy cảm là trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tại sao hình tượng Bác Hồ lại xuyên suốt bài thơ?…
Nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải chia sẻ, mục đích cuối cùng của bà là: “Bằng thể loại thơ giản dị nhất, dễ đi vào lòng người, được quần chúng nhân dân tiếp nhận và có tính thuyết phục, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của đông đảo bạn đọc trong mọi tầng lớp nhân dân qua đó giãi bày một cách cô đọng nhất những vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất của đất nước bằng tiếng nói chân thành, trung thực, trên tinh thần xây dựng”.
“Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt
Có học hành, lại phải sống cầu an
Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”
Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”
Những nỗi đau khổ
Cuộc đời của nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải sau khi bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” ra đời là một minh chứng cho việc “đấu tranh thì tránh đâu cho hết”. Cuốn tự sự của tác giả đã phác hoạ lại số phận cuộc đời của bà sau bài thơ đó.
Người ủng hộ rất nhiều. Bạn đọc xa gần đón nhận bài thơ với sự đồng tình ủng hộ to lớn. Ngay cả những người lính đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào, những chiến sĩ đang canh giữ biển trời tổ quốc nơi hải đảo xa xôi cũng gửi thư về cho tác giả. Những cựu chiến binh, các cụ lão thành cách mạng, những người có công trong 2 cuộc chiến, cán bộ hưu trí, thợ mỏ, người nông dân và cả các giáo sư tiến sĩ… gửi nhà thơ đến hàng nghìn bức thư. Có người còn tìm đến tận ký túc xá Mễ Trì để gặp mặt tác giả cho bằng được.
Người phản đối cũng vô cùng gay gắt. Sau khi bài thơ ra đời, bà trở kẻ phản bội, kẻ vong ơn bội nghĩa, bị cố tình gài bẫy, thậm chí còn có người đòi treo cổ tác giả. Các cơ quan chức năng cũng theo dõi sát sao mọi hoạt động của bà. Đó là thời gian mà tác giả căng thẳng kéo dài về mặt tinh thần. Bà gần như “đóng cửa” không tham gia vào các hoạt động xã hội, khép lòng mình lại, chỉ tập trung hoàn thành việc học , tự tìm cách xoa dịu lòng mình để vượt qua những ngày tháng gian khổ.
Năm 1989, Xuân Khải ra trường, lương bị cắt, chỗ ở ký túc xá phải trả lại. Đi đâu, về đâu? Bà bắt đầu một “cuộc chiến” mới với gánh nặng cơm áo… Lúc đó chính đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã cho bà một lời khuyên rất chân tình : “Cháu ra trường đừng về Nghĩa Bình vội, để tình hình lắng xuống đã”….
Nhiều những câu chuyện, những tình huống , những sự việc gay cấn, nguy hiểm được tác giả bộc bạch qua trang sách. Độc giả sẽ không khỏi xót thương bởi những cay đắng nhà nữ nhà thơ đã trải qua nhưng cũng sẽ vô cùng cảm phục bởi sự dũng cảm, lòng trung thành mà bà đã dành trọn cho Đất nước, cho Đảng, cho nhân dân. Đọc cuốn tự sự bà viết, thấy rất rõ một con người mạnh mẽ, thẳng thắn, cương nghị, và đặc biệt là rất kiên định với nguyên tắc sống của mình. Khi có người nhiều lần mời bà vượt biên, hứa sẽ lo cho bà đủ đầy về vật chất nhưng quyết định của bà là: “dám làm, dám chịu, tại sao phải trốn như một kẻ gian manh?”

Thế nhưng những gì mà tác giả có thể giãi bày cũng chỉ là những phần ít ỏi của nỗi khổ cực bà đã phải chịu đựng suốt bao năm qua. Không thể kể hết và chính tác giả cũng không muốn kể hết.
Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.
Với Phạm Thị Xuân Khải, kể lại những câu chuyện gian khó không phải để than vãn, oán trách mà nhìn lại để hiểu được kết quả và giá trị của công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta ngày hôm nay.
Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.
Phải nhìn thẳng và dám nói sự thật
Trong nhiều năm tiếp theo sau khi bài thơ ra đời, những vần thơ tha thiết chảy bỏng “Có ai thấu chăng/ Và ai phải sửa?” vẫn thôi thúc bao người trong cuộc cuộc đổi mới mở ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Bài thơ không chỉ làm tác giả điêu đứng mà cả những người trong cuộc khác cũng vất vả không kém.
Từ đồng chí Lê Đức Thọ – Uỷ viên Bộ Chính trị – Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Vũ Mão , Bí thư Thứ nhất BCH TW Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đến nhà báo Đinh Văn Nam – Tổng Biên tập báo Tiền Phong và nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền phong. Họ là những “dũng sĩ” trực tiếp điểm hoả cho “quả bom thơ” phát nổ.
Trong cuốn tự sự của mình, tác giả đã rất cảm kích, trân trọng và biết ơn khi nói về những người trong cuộc đó. Cuốn sách trích dẫn nguyên văn phần ghi chép của nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền Phong, trích lại bản lược ghi của nhà báo Đinh Văn Nam – nguyên Tổng biên tập tập báo Tiền Phong trong buổi làm việc với đồng chí Lê Đức Thọ sau khi đăng bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”.
Từ đây phác hoạ rõ nét bức chân dung của người dũng cảm, dám tiên phong cổ vũ cho cái mới, cho công cuộc đổi mới nhưng cũng là những người vất vả vì “trái bom thơ khai thông tư tưởng’, vất vả vì việc dám nói thẳng, nói thật, dám đấu tranh cho cái mới, bảo vệ chân lý và lẽ phải.
Quả thực thời ấy, từ ý kiến cho phép đăng báo bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của đồng chí Lê Đức Thọ đến việc đồng chí Lưu Văn Lợi, đồng chí Vũ Mão, đồng chí Đinh Văn Nam, đồng chí Lê Văn Ba dám quyết định đưa bài thơ lên trang báo Tiền phong là một hành động vô cùng cam đảm, không phải ai cũng dám làm, các cấp lãnh đạo không phải ai cũng sẵn sàng đồng tình tình ủng hộ.
Để rồi những chuyển động đầu tiên đã đến.
Khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thư ký tìm gặp nhà thơ Xuân khải với lời nhắn: “Trung ương đã thấu và đang sửa”.
Thời gian sau, Đảng đổi mới chính mình, thay đổi, mở rộng việc lắng nghe những ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân.
Đến nay, những điều gần như là cấm kỵ về đời sống văn hoá nghệ thuật của một thời đã được công khai đề cập chứ không như trước đây, chỉ râm ran trong dư luận.
Việc nhìn thẳng, nói thật, công khai khuyết điểm, sai lầm thì thời nào cũng khó do những rào cản vô hình của nó nhưng đã không còn là điều huý kị như cách đây gần 40 năm ./
Leave a Reply