Category: Lịch sử – Chính trị

  • “Những ô cửa gió lộng” – Đối diện để chữa lành tổn thương

    “Những ô cửa gió lộng” – Đối diện để chữa lành tổn thương

    Anh Lưu Tuấn Anh là con trai của nhà thơ Xuân Quỳnh với chồng cũ. Sau 9 năm chuẩn bị mới có thể đủ dũng cảm để chia sẻ về gia đình – điều mà trước đây anh vẫn luôn coi là thiêng liêng và “bất khả xâm phạm”. Tập hồi ức “Những ô cửa gió lộng” ra đời, độc giả có thêm một hình dung về những nghệ sĩ tài năng trên diễn đàn văn học nghệ thuật Việt và cũng là cách để tác giả chữa lành vết thương, vượt qua những mất mát quá lớn đã xảy ra trong đời mình.

    “Kí ức là những ô cửa sổ mở ra một vùng trời bao la lồng lộng gió.
    Bầu trời trong xanh như con mắt trẻ thơ.
    Và những cơn gió của hoài niệm miên man thổi mãi…

    Lưu Tuấn Anh

    Ký ức ngọt ngào về mẹ và lý giải nguyên nhân cuộc hôn nhân đầu tiên tan vỡ

    Tập hồi ức “Những ô cửa gió lộng” của Lưu Tuấn Anh ngắn thôi nhưng mỗi dòng chữ đều chứa đựng bao kỷ niệm nhớ thương lẫn những đau xót không nguôi. Ông tái hiện hình ảnh người mẹ Xuân Quỳnh với tấm lòng bao dung, vị tha, luôn hóm hỉnh mà tràn đầy mạnh mẽ.

    Đổ vỡ ở cuộc hôn nhân đầu tiên, bà chọn ở lại khu tập thể cũ, nhà mới nhà cũ cách nhau 1 tầng để thuận tiện chăm sóc cho đứa con đầu tiên. Chặng đường học hành, công việc của con cũng một tay bà lo lắng, sắp xếp. Xuân Quỳnh cũng như bao bà mẹ khác, dành trọn vẹn tình cảm cho con. Nhưng bà hơn người khác ở chỗ là không bao giờ đánh phạt con mình. Chỉ bằng ngôn ngữ, bà đã cảm hoá được trái tim của những đứa trẻ. Đối với tác giả, Xuân Quỳnh là người mẹ không có điều gì đáng chê trách!

    Điều đó cũng khiến tôi thầm tự hỏi, một người phụ nữ vì gia đình, sống với trái tim nhân hậu và tình yêu thương con như vậy tại sao lại lựa chọn li hôn trong khi người chồng đầu tiên của  bà – nghệ sĩ Lưu Tuấn – một người nghệ sỹ gốc Hà Thành hào hoa, lịch lãm cũng là người xem gia đình là ưu tiên số 1.

    Liệu có phải tác giả có đang hơi đánh bóng tên tuổi, có hơi  lý tưởng hoá mẹ mình lên hay không? Hồi ức vốn là vậy, bao giờ cũng đậm tính chủ quan.

    Tác giả Lưu Tuấn Anh và mẹ năm 1970 – Một bức hình tràn ngập yêu thương

     Nhưng tác giả đã lý giải khá hợp lý nguyên nhân đổ vỡ của gia đình mình. Vốn nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầy say mê và khát vọng trong khi chồng cũ là một hình ảnh hoàn toàn đối lập. Ông cũng là người quá cẩn thận, ngăn nắp đến mức hà khắc khiến Xuân Quỳnh trong mắt ông trở thành một người luộm thuộm với những mơ ước viển vông. Mãi sau này, cuộc sống chung giữa tác giả với bố mình đã khiến anh hiểu tại sao mẹ lại chọn ra đi trong khi ông bà vẫn còn thương nhau.

    Vốn nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầy say mê và khát vọng trong khi chồng cũ là một hình ảnh hoàn toàn đối lập. Ông cũng là người quá cẩn thận, ngăn nắp đến mức hà khắc khiến Xuân Quỳnh trong mắt ông trở thành một người luộm thuộm với những mơ ước viển vông.

    Những chia sẻ thẳng thắn về cha dượng Lưu Quang Vũ

    Tác giả Lưu Tuấn Anh có mối quan hệ đặc biệt tốt đẹp với cha dượng Lưu Quang Vũ. Nhưng mối quan hệ đó bắt đầu từ những định kiến không dễ vượt qua. Điều đáng nói là tác giả đã thẳng thắn chia sẻ những góc nhìn đó.

    Bởi những tư tưởng vượt thời đại của mình, độc giả có thể dễ dàng hiểu vì sao những tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã có lúc không được các nhà xuất bản chào đón. Độc giả cũng có thể hiểu vì sao ông từng thuộc diện những đối tượng bị theo dõi gắt gao. Nhưng thật bất ngờ khi biết rằng, Lưu Quang Vũ từng đào ngũ.

     Đào ngũ vốn là một chuyện tày đình đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến trước đây. Việc chia sẻ thông tin Lưu Quang Vũ từng đào ngũ là một chi tiết nhạy cảm bởi rất có thể điều đó làm ảnh hưởng đến tình cảm của những người mến mộ ông. Nhưng tác giả Lưu Tuấn Anh đã chọn lựa công bố thông tin này. Đây là một hành động táo bạo, nhưng đầy ý nghĩa của tác giả. Nó khẳng định sự chân thực trong ký ức và cách ông đối diện với lịch sử gia đình mình.

    Không có hình mẫu nào là hoàn hảo, Lưu Quang Vũ là một con người thật chứ không phải là một hình tượng. Bởi vậy ông cũng có những sai lầm. Nhưng sự lớn lao bắt đầu từ cách mà người ta sửa sai.

    Không có hình mẫu nào là hoàn hảo, Lưu Quang Vũ là một con người thật chứ không phải là một hình tượng. Bởi vậy ông cũng có những sai lầm. Nhưng sự lớn lao bắt đầu từ cách mà người ta sửa sai.

    Câu chuyện về “con anh, con tôi, con chúng ta”

    Tình cảm có những điều thật khó lý giải. Chồng cũ có thể thương và yêu chiều con riêng của vợ có lúc còn hơn cả con trai mình. Con riêng của vợ và con riêng của chồng trở thành anh em đối đãi với nhau hơn cả ruột rà…Những điều không dễ xảy ra lại đến ở đây. Tại sao? Có lẽ bởi họ vốn đã là những người tử tế. Tình yêu thương và cả nỗi đau quá lớn đã đưa họ lại gần nhau, đã khiến họ nương tựa vào nhau mà sống.

    Lưu Minh Vũ – con trai riêng của Lưu Quang Vũ với nghệ sĩ điện ảnh Tố Uyên. Nhiều năm trước đây, khi theo dõi chương trình “Hãy chọn giá đúng”, tôi đã nhìn thấy ở anh một nét đượm buồn trên khuôn mặt dù rằng lúc đó, tôi chưa hề biết những câu chuyện éo le anh trải qua. Đọc những kỉ niệm của anh Lưu Tuấn Anh về anh mới thấy cảm giác lúc đó của tôi là đúng.

    MC Lưu Minh Vũ là một người rất đa cảm. Dù anh có nở nụ cười đó nhưng gương mặt anh không thật đúng là đang cười. Đôi mắt có điều gì đó rất đặc biệt. Sáng lấp lánh nhưng cũng sâu hun hút, như cõi lòng của anh vậy. Tôi lại bật cười khi nhìn những hình ảnh có phần phát tướng của anh hiện tại. Có lẽ anh đúng thật là người có sở thích “ăn thủng nồi trôi rế”, ăn một lúc đến 3 bát phở như tác giả đã kể.

    Tôi tin họ là những người tử tế và nỗi đau đã đưa họ đến gần với nhau

    Lưu Quỳnh Thơ – con trai của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ dừng lại cuộc đời khi còn là cậu bé 13 tuổi. Giàu tình cảm, thông minh với những năng khiếu vượt trội, tác giả nói về Quỳnh Thơ bằng những gì chứa chan nhất, nồng thắm nhất. Một cậu bé hàn gắn những đổ vỡ bên trong của người lớn. Một cậu bé mang bao hy vọng. Có lẽ, nếu không nghĩ như cách tác giả nghĩ, rằng, em là người trời và phải về với trời thì chắc không bao giờ người ở lại có thể vượt qua được sự thật tàn khốc đó.

    Hơn 30 năm trôi qua kể từ mùa hạ cuối cùng của Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ và Quỳnh Thơ, nỗi đau ấy vẫn còn đó – đậm sâu trong lòng người ở lại, dù họ đã nỗ lực rất nhiều để vượt qua. Cuốn hồi ức cũng cho thấy có những hành trình chữa lành không chỉ cần thời gian mà còn đòi hỏi biết bao lòng dũng cảm.

  • Nhớ về đêm trước đổi mới với “trái bom thơ”

    Nhớ về đêm trước đổi mới với “trái bom thơ”

    “Trái bom thơ”

    Giai đoạn những năm cuối thập kỷ 70 và nửa đầu thập  kỷ 80, Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng khi vận hành nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.

    Điều đáng nói là, trước tình hình như vậy, có không ít những ý kiến “ngược chiều”, muốn cảnh báo với Đảng và Nhà nước về những nguy cơ tiềm ẩn, những vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra thì tất cả đều bị phê phán và quy chụp, đánh giá tư tưởng và phẩm chất chính trị không tốt. Bởi vậy có hiện tượng nhiều người không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám gọi đúng tên sự thật và càng không dám nói lên sự thật để khắc phục, sửa chữa. Đó là thời kỳ của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ, duy ý chí.

    Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của tác giả Phạm Thị Xuân Khải ra đời trong những suy tư về một thời kỳ nóng bỏng như thế. Lúc viết bài thơ, bà là sinh viên năm 2 của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tuy nhiên, trước đó bà đã là cán bộ cơ sở, tận mắt chứng kiến những khó khăn chồng chất, tình cảnh cơ cực, khốn khó của người lao động. Những bất cập trong cơ chế, chính sách khiến cho sự khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Phạm Thị Xuân Khải đã quyết định phải làm một điều gì đó để góp phần tạo nên sự thay đổi, thúc đẩy sự đổi mới, tìm ra lối thoát, một hướng đi mới cho cuộc sống của nhân dân. 

    Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”  ra đời, đề cập một cách trực diện hiện thực cuộc sống, những tiêu cực trong xã hội đương thời, trực tiếp phê phán những cán bộ biến chất, thoái hoá, trù dập người ngay thẳng.  Đến nay sau 38 năm đọc lại vẫn còn giật mình bởi dũng khí “dám nhìn thẳng, nói thật” của nữ nhà thơ:

    “Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt

    Có học hành, lại phải sống cầu an

    Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”

    Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”

    “Đồng chí không bằng đồng tiền

    Bằng lòng vẫn hơn bằng cấp”

    “ Có mắt giả mù, có tai giả điếc

    Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung

    Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ

    Cùng chí hướng sao bầy mưu chia rẽ?

    Tham quyền cố vị

    Sợ trẻ hơn già

    Quên mất lời người xưa:

    “Con hơn cha là nhà có phúc”

    Nhà thơ Phan Thị Xuân Khải trò chuyện cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Khi bài thơ đến với bạn đọc, hàng triệu độc giả xa gần tìm cho bằng được tờ báo có bài thơ ấy. Báo không đủ bán, mua không được báo thì bạn đọc chuyền tay nhau, đọc chép bài thơ vào sổ tay. Từ người trẻ đến thế hệ cán bộ lão thành, những cán bộ cấp cao của Đảng cũng tìm gặp nhà thơ.

    Lúc đó bài thơ được ví như “trái bộc phá”  gây rung chấn dữ dội để rồi làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tác giả. Từ chỗ yên bình đến trùng trùng sóng gió. Từ chỗ là cán bộ nguồn đến việc phải tự nguyện nghỉ việc nhà nước, luôn sống trong sự cảnh giác, nỗi cô đơn, sự căng thẳng, áp lực kéo dài.

    Thế nhưng, phải mãi đến năm 2006, sau 20 năm trời im lặng, tác giả Phạm Thị Xuân Khải mới có thể chính thức công bố toàn bộ “hồ sơ” của sự kiện qua cuốn sách “Mùa xuân nhớ Bác” – tự sự của tác giả”.

    Trong cuốn sách, tác giả lần lượt giải đáp những vấn đề xung quanh bài thơ như tại sao lại chọn tên bài thơ là “Mùa xuân nhớ Bác”, tại sao lại chọn công bố bài thơ vào một  thời điểm nhạy cảm là trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tại sao hình tượng Bác Hồ lại xuyên suốt bài thơ?…

    Nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải chia sẻ, mục đích cuối cùng của bà là: “Bằng thể loại thơ giản dị nhất, dễ đi vào lòng người, được quần chúng nhân dân tiếp nhận và có tính thuyết phục, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của đông đảo bạn đọc trong mọi tầng lớp nhân dân qua đó giãi bày một cách cô đọng nhất những vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất của đất nước bằng tiếng nói chân thành, trung thực, trên tinh thần xây dựng”.

    “Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt

    Có học hành, lại phải sống cầu an

    Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”

    Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”

    Những nỗi đau khổ

    Cuộc đời của nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải sau khi bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” ra đời là một minh chứng cho việc “đấu tranh thì tránh đâu cho hết”. Cuốn tự sự của tác giả đã phác hoạ lại số phận cuộc đời của bà sau bài thơ đó.

    Người ủng hộ rất nhiều. Bạn đọc xa gần đón nhận bài thơ với sự đồng tình ủng hộ to lớn. Ngay cả những người lính đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào, những chiến sĩ đang canh giữ biển trời tổ quốc nơi hải đảo xa xôi cũng gửi thư về cho tác giả. Những cựu chiến binh, các cụ lão thành cách mạng, những người có công trong 2 cuộc chiến, cán bộ hưu trí, thợ mỏ, người nông dân và cả các giáo sư tiến sĩ… gửi nhà thơ đến hàng nghìn bức thư. Có người còn tìm đến tận ký túc xá Mễ Trì để gặp mặt tác giả cho bằng được.

    Người phản đối cũng vô cùng gay gắt. Sau khi bài thơ ra đời, bà trở kẻ phản bội, kẻ vong ơn bội nghĩa, bị cố tình gài bẫy, thậm chí còn có người đòi treo cổ tác giả. Các cơ quan chức năng cũng theo dõi sát sao mọi hoạt động của bà. Đó là thời gian mà tác giả căng thẳng kéo dài về mặt tinh thần. Bà gần như “đóng cửa” không tham gia vào các hoạt động xã hội, khép lòng mình lại, chỉ tập trung hoàn thành việc học , tự tìm cách xoa dịu lòng mình để vượt qua những ngày tháng gian khổ.

    Năm 1989, Xuân Khải ra trường, lương bị cắt, chỗ ở ký túc xá phải trả lại. Đi đâu, về đâu? Bà bắt đầu một “cuộc chiến” mới với gánh nặng cơm áo… Lúc đó chính đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã cho bà một lời khuyên rất chân tình : “Cháu ra trường đừng về Nghĩa Bình vội, để tình hình lắng xuống đã”….

     Nhiều những câu chuyện, những tình  huống , những sự việc gay cấn, nguy hiểm được tác giả bộc bạch qua trang sách. Độc giả sẽ không khỏi xót thương bởi những cay đắng nhà nữ nhà thơ đã trải qua nhưng cũng sẽ vô cùng cảm phục bởi sự dũng cảm, lòng trung thành mà bà đã dành trọn cho Đất nước, cho Đảng, cho nhân dân. Đọc cuốn tự sự bà viết, thấy rất rõ một con người mạnh mẽ, thẳng thắn, cương nghị, và đặc biệt là rất kiên định với nguyên tắc sống của mình. Khi có người nhiều lần mời  bà vượt biên, hứa sẽ lo cho bà đủ đầy về vật chất nhưng quyết định của bà là: “dám làm, dám chịu, tại sao phải trốn như một kẻ gian manh?”

    Bản thảo gốc

    Thế nhưng những gì mà tác giả có thể giãi bày cũng chỉ là những phần ít ỏi của nỗi khổ cực bà đã phải chịu đựng suốt bao năm qua. Không thể kể hết và chính tác giả cũng không muốn kể hết.

    Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.

     Với Phạm Thị Xuân Khải, kể lại những câu chuyện gian khó không phải để than vãn, oán trách mà nhìn lại để hiểu được kết quả và giá trị của công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta ngày hôm nay.  

    Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.

    Phải nhìn thẳng và dám nói sự thật

    Trong nhiều năm tiếp theo sau khi bài thơ ra đời, những vần thơ tha thiết chảy bỏng “Có ai thấu chăng/ Và ai phải sửa?” vẫn thôi thúc bao người trong cuộc cuộc đổi mới mở ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Bài thơ không chỉ làm tác giả điêu đứng mà cả những người trong cuộc khác cũng vất vả không kém.

    Từ đồng chí Lê Đức Thọ – Uỷ viên Bộ Chính trị – Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Vũ Mão , Bí thư Thứ nhất BCH TW Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đến nhà báo Đinh Văn Nam – Tổng Biên tập báo Tiền Phong và nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền phong. Họ là những “dũng sĩ” trực tiếp điểm hoả cho “quả bom thơ” phát nổ.

    Trong cuốn tự sự của mình, tác giả đã rất cảm kích, trân trọng và biết ơn khi nói về những người trong cuộc đó. Cuốn sách trích dẫn nguyên văn phần ghi chép của nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền Phong, trích lại bản lược ghi của nhà báo Đinh Văn Nam – nguyên Tổng biên tập tập báo Tiền Phong trong buổi làm việc với đồng chí Lê Đức Thọ sau khi đăng bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”.

    Từ đây phác hoạ rõ nét bức chân dung của người dũng cảm, dám tiên phong cổ vũ cho cái mới, cho công cuộc đổi mới nhưng cũng là những người vất vả vì “trái bom thơ khai thông tư tưởng’, vất vả vì việc dám nói thẳng, nói thật, dám đấu tranh cho cái mới, bảo vệ chân lý và lẽ phải.

    Quả thực thời ấy, từ ý kiến cho phép đăng báo bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của đồng chí Lê Đức Thọ đến việc đồng chí Lưu Văn Lợi, đồng chí Vũ Mão, đồng chí Đinh Văn Nam, đồng chí Lê Văn Ba dám quyết định đưa bài thơ lên trang báo Tiền phong là một hành động vô cùng cam đảm, không phải ai cũng dám làm, các cấp lãnh đạo không phải ai cũng sẵn sàng đồng tình tình ủng hộ.

    Để rồi những chuyển động đầu tiên đã đến.

    Khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thư ký tìm gặp nhà thơ Xuân khải với lời nhắn: “Trung ương đã thấu và đang sửa”.

    Thời gian sau, Đảng đổi mới chính mình, thay đổi, mở rộng việc lắng nghe những  ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân.

    Đến nay, những điều gần như là cấm kỵ về đời sống văn hoá nghệ thuật của một thời đã được công khai đề cập chứ không như trước đây, chỉ râm ran trong dư luận.

    Việc nhìn thẳng, nói thật, công khai khuyết điểm, sai lầm thì thời nào cũng khó do những rào cản vô hình của nó nhưng đã không còn là điều huý kị như cách đây gần 40 năm ./

  • Ký ức theo dòng đời – Cuộc đời tận hiến của một người từng bị khai trừ Đảng

    Ký ức theo dòng đời – Cuộc đời tận hiến của một người từng bị khai trừ Đảng

    Tư liệu quý về những mũi phá rào trong phát triển kinh tế ở Việt Nam trước đổi mới

    Vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, khi Việt Nam vận hành một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, mang đậm tính quan liêu, bao cấp và thực hiện chính sách triệt tiêu mọi mầm mống của kinh tế tư nhân, đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.

    Đặc biệt, sau hai cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, toàn bộ mạng lưới của nền kinh tế thị trường từng tồn tại bị phá vỡ, nguồn nguyên liệu sản xuất bị cạn kiệt. Đời sống nhân dân lâm vào cảnh kiệt quệ và bế tắc kéo dài.

    Trong bối cảnh đó, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ – Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt – đã mạnh dạn tìm kiếm những giải pháp để tháo gỡ thế bế tắc.

    Với tư duy đổi mới, ông chủ động vận dụng linh hoạt thực tiễn để cứu dân, cứu nền kinh tế thành phố. Một trong những giải pháp đầu tiên mà Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt  triển khai là tập hợp tư thương, vận dụng khả năng và các mối quan hệ của họ để nối lại dòng lưu thông hàng hoá trong nước, nối lại mối quan hệ làm ăn, buôn bán với nước ngoài. Có như vậy mới có thể phục hồi mạng lưới cung ứng và sản xuất đang tê liệt.

    Trong cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và Nhà nước độc quyền về ngoại thương lúc đó, những việc làm như vậy bị xem là trái quy định, thậm chí là phạm. Phải đến sau này, những nỗ lực linh hoạt và dũng cảm ấy mới được nhìn nhận đúng giá trị, dưới tên gọi “phá rào”.

    Cuốn hồi ký “Ký ức theo dòng đời” đã tái hiện lại cách triển khai những việc làm từng được xem là bất hợp pháp đó. Từ những bước tập dượt đi buôn thời bao cấp, đến việc hình thành Cholimex – công ty cổ phần đầu tiên hoạt động dưới hình thức “công tư hợp doanh” để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ nhà nước độc quyền về ngoại thương…

    Ông Phan Chánh Dưỡng cũng kể lại việc tham gia các chương trình thu hút kiều hối, tìm cách hợp thức hóa các hoạt động giao thương xuyên biên giới nhằm cung cấp nguyên vật liệu và hàng thiết yếu cho các nhà máy đang đứng trước nguy cơ phá sản. Những mô hình thử nghiệm này không chỉ là “phá rào” trong tư duy, mà còn là tiền đề cho những thay đổi sâu rộng sau này trong chính sách kinh tế của Việt Nam.

    Vốn là người trực tiếp dấn thân trong dòng chảy đổi thay ấy, ông Phan Chánh Dưỡng thấu hiểu tường tận từng bước đi, từng khó khăn, va vấp, cả những mất mát và hy sinh thầm lặng của một thời “phá rào” đầy giằng co.

    Chính vì vậy, những tư liệu lịch sử quý giá về một giai đoạn chuyển mình của đất nước trở nên sống động, mang đậm hơi thở cuộc sống và chan chứa cảm xúc của người trong cuộc.

    Ký ức về những người “giữ lửa”

    Dù những đóng góp của ông Phan Chánh Dưỡng mang đậm dấu ấn lịch sử, nhưng chính ông luôn nhìn nhận một cách khiêm nhường rằng, mọi nỗ lực cá nhân chỉ có thể thành hiện thực khi nhận được sự đồng hành và “giữ lửa” từ những người lãnh đạo dũng cảm, cấp tiến lúc bấy giờ.

    Ông từng chia sẻ rằng: “Hồi đó tôi còn trẻ lắm, không đủ sức đánh giá đây là một chính sách gì lớn đâu. Mình làm theo chỉ đạo là chính, nhưng khi làm như vậy thì thấy cuộc sống người dân khởi sắc hơn.”

    Quả thực, khi triển khai những giải pháp được xem là “phá rào”, tháo gỡ những ách tắc trong sản xuất ở Thành phố Hồ Chí Minh lúc đó, nếu không có sự bảo trợ mạnh tay của  Bí thư Thành uỷ Võ Văn Kiệt hay Bí thư Quận uỷ Quận 5 Võ Trần Chí thì có lẽ số phận của ông cũng như những người thực thi khác đã thêm nhiều gian truân. Phan Chánh Dưỡng đã dành một chương trong cuốn sách để nói về vai trò của những nhân vật lịch sử như vậy.

    Sau này, dấu ấn đóng góp của ông Phan Chánh Dưỡng đối với tiến trình phát triển kinh tế đất nước nói chung, và sự chuyển mình của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, được thể hiện rõ nét qua loạt dự án mang tính đột phá như khu chế xuất Tân Thuận, khu đô thị Phú Mỹ Hưng, cụm công nghiệp Hiệp Phước. Những công trình này đã góp phần làm thay đổi hoàn toàn diện mạo khu vực phía Nam Sài Gòn, biến vùng đất Nhà Bè hoang sơ, sình lầy, ngập mặn – nơi từng bị xem là bất khả thi về quy hoạch – thành một khu đô thị hiện đại, năng động và mang tầm vóc quốc tế.

    Trong đó, đại lộ Nguyễn Văn Linh – tuyến đường rộng 120m nối liền khu chế xuất Tân Thuận với Phú Mỹ Hưng – chính là “trục xương sống” cho toàn bộ sự phát triển khu vực và là niềm tự hào lớn lao của ông.

    Hành trình 30 năm ông Phan Chánh Dưỡng bền bỉ gắn bó, dấn thân, vun đắp cho từng tấc đất Nhà Bè là minh chứng cho một tầm nhìn dài hạn, một khát vọng xây dựng đất nước từ thực tiễn và một trái tim tận hiến vì cộng đồng.

    Tuy vậy, ông Phan Chánh Dưỡng cũng có những nuối tiếc riêng của mình. Điều ông trăn trở nhất là giấc mơ về một “Sài Gòn tiến ra biển Đông” – một đô thị năng động, hiện đại, hướng biển, kết nối mạnh mẽ với thế giới bằng cả hạ tầng và tầm nhìn. Giấc mơ đó, ông mới chỉ kịp đặt những viên gạch đầu tiên. Ông gửi gắm hy vọng vào một thế hệ mới đủ trí tuệ, kiến thức và sự kiên định vượt trở ngại khó khăn trước mắt, tiếp bước hành trình xây dựng một thành phố đáng sống, một đất nước hùng cường.

    Sống một cuộc đời có ích cho xã hội

    Ông Phan Chánh Dưỡng là mẫu mực của một người hàn vi từ nhỏ nhưng nhờ sự thông minh, ham học, ý chí vượt khó thành tài mà trở thành bậc trí thức, hữu ích cho xã hội. Cuộc đời ông là minh chứng cho những gì ông đúc kết:  “Nếu có ý chí vươn lên, không ngừng học hỏi thì bất cứ môi trường nào đều có thể là nơi trui rèn nên sự phát triển trí tuệ và khả năng tạo dựng nên cuộc đời hữu ích cho xã hội “

    Ngay trong những giai đoạn khó khăn vất vả nhất khi một mình bươn chải ở Sài Gòn, ông vẫn kiên định một ý chí vươn lên, dùng sự khổ luyện và tự học để thay đổi cuộc đời mình. Một chàng trai bồi bàn nghèo kiết xác vẫn không quên việc đọc sách, tự học, tự khép mình vào khuôn khổ để thi đỗ đại học. Quá trình lập nghiệp ông tự gọi mình là một anh Nam bộ “bốn không” – “không tiền, không địa vị, không có kinh nghiệm của cuộc sống đô thị xa hoa và không có mối quan hệ thân thế gia đình”. Nhưng tất cả khó khăn ông biến thành cơ hội chỉ với một suy nghĩ kiên định là: “Mình chỉ việc tiến lên phía trước một cách không hối hận, vì chẳng còn con đường nào khác hơn”.

    Phan Chánh Dưỡng chia sẻ những giá trị và nguyên tắc đã định hướng cho cuộc sống và công việc của ông đó là việc “sống vì người khác”. Chắc hẳn ai cũng sẽ dễ nảy sinh chút ít tâm lý bất mãn khi bị kỳ thị về nguồn gốc xuất thân, vốn là đảng viên lại bị khai trừ Đảng do người nhà vượt biên trái phép rồi bao gian nan, trầy trật trong công việc. Nhưng cuộc sống càng khó khăn, thử thách càng khắc nghiệt ông lại càng kiên nhẫn. Ông lùi lại để thích ứng với một suy nghĩ phải làm sao để có được những giá trị trong cuộc đời.

    Khi đọc tự truyện, chúng ta vẫn luôn biết rằng, ai cũng có một vài bí mật không muốn tiết lộ, ai cũng muốn người khác nhìn vào mình với tất cả những gì tốt đẹp nhất. Thế nhưng có lẽ với bản chất chính trực, ngay thẳng của mình, Phan Chánh Dưỡng đã  thẳng thắn “phơi bày” những góc khuất của cuộc đời mình. Chỉ việc dám thừa nhận mình đã từng trốn đi lính như thế nào, hai người em đã làm cách nào để trốn việc tòng quân…cũng đủ cho ta thấy con người đó không tô hồng, không đánh bóng bản thân mà dám nhìn thẳng vào cả ưu và nhược của chính mình.

    “Ký ức theo dòng đời ” là một tự truyện đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến lịch sử và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Phan Chánh Dưỡng là một tấm gương sáng cho những ai tin rằng, dù xuất phát điểm có khó khăn đến đâu, với ý chí và nỗ lực không ngừng, bất kỳ ai cũng có thể tạo ra những thay đổi lớn lao. Ông cũng đã chứng minh được rằng, sống một cuộc đời có ý nghĩa không chỉ là theo đuổi thành công cá nhân mà còn là những đóng góp cho cộng đồng và xã hội.

    Nếu có ý chí vươn lên, không ngừng học hỏi thì bất cứ môi trường nào đều có thể là nơi trui rèn nên sự phát triển trí tuệ và khả năng tạo dựng nên cuộc đời hữu ích cho xã hội “

  • Có một đường mòn trên biển Đông

    Có một đường mòn trên biển Đông

    Những con người bình thường vĩ đại

    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuyến chi viện quân sự chiến lược trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con đường huyền thoại. Cùng với tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã kết nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, vận chuyển kịp thời, hiệu quả vũ khí và lực lượng, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975.

    Chiến tranh kết thúc, dấu tích của con đường huyền thoại cũng chìm sâu trong mặt biển mênh mông, câm lặng. Nhà văn Nguyên Ngọc với ngòi bút giàu tình cảm, đã kể lại cho người đọc hành trình đi tìm lại những con người từng góp công sức lớn lao xây dựng nên con đường mòn trên biển – những con người anh dũng, quả cảm, trí tuệ, tài năng mà chưa một lần được sử sách ghi danh hay có chăng chỉ là dòng chữ ngắn ngủi.

    Giai đoạn mở đường với nhiệm vụ: phải đi khảo sát vùng bờ biển Bà Rịa, tìm nơi lập bến, cho người ra Bắc đón tàu dẫn súng đạn về. Có những con người, như đồng chí Dương Quang Đông – một người lính vô danh của một tiểu đội vô danh, đói khát, len lỏi tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ. Chính đồng chí là người đã đưa ra ý tưởng táo bạo – bố trí một bến đón bí mật từ cửa sông Ray – ngay sát căn cứ của địch. Ý tưởng này cùng những chuyến đi sinh tử sau đó đã góp phần khai thông con đường huyền thoại nhưng trong cuốn dự thảo Lịch sử lữ đoàn Hải quân 125, tên của đồng chí Dương Quang Đông chưa một lần được nhắc đến.

    Câu chuyện về má Mười Rìu – một người phụ nữ kì lạ, với 10 đồng bạc mà dựng nên cơ nghiệp cho cách mạng. Má có thể mua một chiếc thuyền sáu tấn có máy đẩy Yama, một giàn lưới lớn, mấy tấn xăng dầu, hàng chục tấn gạo để phục vụ cho những cán bộ cách mạng trong những ngày mở đường gian khó…

    Không chỉ có 2 con người đó, hàng trăm, hàng ngàn con người ngày đêm âm thầm mà sôi nổi, ngày đêm mưu tính ngược xuôi để cuối cùng con đường mòn trên biển đã được khai thông với cả một mạng lưới các bến liên hoàn từ Bà Rịa đến Cà Mau.

    Di tích bến K15 tại Đồ Sơn (Hải Phòng), nơi xuất phát những con tàu không số chi viện chiến trường miền Nam

    Tiếp sau giai đoạn mở đường là giai đoạn mà con đường trên biển đi vào hoạt động chính thức trong sự bí mật tuyệt đối. Nhưng rồi với sự kiện Vũng Rô – chấm dứt giai đoạn hoàn toàn bí mật này để chuyến sang giai đoạn mới. Đoàn tàu vận chuyển hàng hoá phải hoạt động công khai trước sự kìm kẹp gắt gao của kẻ thù.

    Nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm ra những con người, những số phận âm thầm vô danh mà sự đóng góp của họ lại vô cùng vĩ đại. Cả đoàn thuỷ thủ hàng chục người sẵn sàng “quên sinh” để kẻ thù không thể lần tìm ra manh mối của những con tàu không số, những người phụ nữ hy sinh đời mình sống trong cô độc thậm chí miệt thị của người khác để giữ vững bí mật danh tính những chiến sỹ đoàn tàu không số….

    Còn biết bao số phận khác cũng như vậy – đó chính là nhân dân, cụ thể, âm thầm, vô danh, như mặt đất, như biển, khiến người đọc xúc động, tự hào về lịch sử bi tráng của dân tộc.

    Đó chính là nhân dân, cụ thể, âm thầm, vô danh, như mặt đất, như biển, khiến người đọc xúc động, tự hào về lịch sử bi tráng của dân tộc.

    “Sự bình thường chỉ có ở những người trong sáng”

    Những con người hiển hách, góp công sức lớn lao cho cách mạng như vậy, khi chiến tranh kết thúc họ lại trở về làm một người bình thường. Với những gì đã hy sinh có mấy ai dễ dàng chấp nhận sống một cuộc đời bình thường như thế.

    Má Mười Rìu – bà má huyền thoại quay trở về làm người đàn bà sống bên làng chài ven biển, bán vô số thứ vật dụng linh tinh, lộn xộn, không tên. Đồng chí Dương Quang Đông cũng vậy, trở về cuộc sống đời thường là một cụ già giản dị, chậm rãi mang đậm dáng dấp của người “công nhân Ba Son”…

    Họ là những con người chiến đấu hy sinh cho Tổ quốc mà không mưu cầu bất kỳ danh lợi gì, không mong được đền ơn, không mong được trả lại…Lý lẽ của họ đơn giản chỉ là : “Rồi xương máu của anh em ai trả”.

    “Có một đường mòn trên biển Đông” không chỉ đem đến cho người đọc hình dung về lịch sử tuyến đường trên biển chi viện vũ khí lực lượng cho chiến trường Nam mà còn một lần nhắc nhớ chúng ta về giá trị cốt lõi trong đời sống con người. Sống một cuộc sống bình thường vốn đã là điều tốt đẹp.

    Bởi lẽ, cũng như nhà văn Nguyên Ngọc từng nói: “Không dễ từng sống anh hùng trong chiến tranh rồi lại sống bình thường trong hoà bình đâu. Sự bình thường là một đức tính, chỉ có ở người thật trong sáng”.

    Không dễ từng sống anh hùng trong chiến tranh rồi lại sống bình thường trong hoà bình đâu. Sự bình thường là một đức tính, chỉ có ở người thật trong sáng

     

     

  • Sử Việt 12 khúc tráng ca

    Sử Việt 12 khúc tráng ca

    12 khúc ca trong cuốn sách là 12 câu chuyện lịch sử về các vị vua đã có công dựng nước và giữ nước. Tác giả không chỉ đưa người đọc đến với những vị anh hùng như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… mà còn kể đến những nhân vật quan trọng chưa được đánh giá đúng mực như Khúc Hạo, hay những địa danh bị bụi thời gian phủ mờ như thành Bình Lỗ, đầm Thi Nại.

    Tác phẩm lịch sử không hề khô khan bởi tác giả đã lựa chọn được những điểm ly kỳ,  hấp dẫn để kể lại từ đó mà hậu thế có thể có được một hình dung sinh động về quá khứ. Như việc phân tích về kỹ thuật đóng cọc trên sông Bạch Đằng giúp người anh hùng Ngô Quyền chấm dứt hơn 1000 năm Bắc Thuộc. Hay việc giải đáp chuyện bí ẩn vua Quang Trung hành quân thần tốc, lý giải vì sao lãnh thổ dân tộc có diện mạo hình chữ S như ngày hôm nay…

    Sử việt 12 khúc tráng ca hấp dẫn còn bởi lịch sử các vương triều Việt  được kể lại với những cuộc tranh đoạt ngôi vương, những mâu thuẫn nội tộc, những vụ án ly kỳ và cả những nghi án lịch sử. Nếu lịch sử Trung Hoa kỳ vĩ và hấp dẫn hậu thế bởi đã khai thác thành công những yếu tố đó thì chắc chắn rằng, nếu sử Việt thật sự được khai thác một cách triệt để nhất, độ hấp dẫn ly kỳ cũng chẳng kém ai.

    Điều đặc biệt là từ những câu chuyện lịch sử tác giả đã đúc kết thành những bài học quý. Nếu công lao của dòng họ Khúc là kiện toàn hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương với những cải cách gần dân và ở cấp cơ sở để tạo tiền đề cho Ngô Quyền 30 năm sau chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc một cách đường đường chính chính thì rõ ràng, bài học mà tiền nhân để lại chính là: “Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi có nền móng vững chắc, một con người chỉ thành công khi có cái gốc vững vàng.

    “Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi có nền móng vững chắc, một con người chỉ thành công khi có cái gốc vững vàng.

    Hay như khi phân tích về bi kịch mất nước của nhà Hồ, tác giả đã làm rõ bài học về lòng dân. Sở dĩ giang sơn dù thuộc về nhà Hồ, nhưng lòng dân thì không nên vương triều này đã không thể đối đầu với quân Minh.

    Trước khi chiến tranh xảy ra, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. 600 năm rồi câu nói ấy vẫn chứa bao uẩn ức và là một bài học mà hậu thế không bao giờ được phép lãng quên.

    Tuy nhiên cuốn sách sẽ hoàn hảo hơn nếu không có một số sai sót. “Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, tức Nguyễn Thái Tổ, niên hiệu Gia Long” (trang 255). Ngoài vấn đề danh hiệu, vì khi đó Nguyễn Ánh mới xưng vương, phải đến năm 1806 mới xưng là hoàng đế, thì miếu hiệu Nguyễn Thái Tổ là một nhầm lẫn lớn.

    Bởi vì sau khi vua Gia Long mất, triều thần mới đặt miếu hiệu của ông là Nguyễn Thế Tổ. Miếu hiệu “Thái Tổ” được vua Gia Long dành để suy tôn cho chúa Nguyễn Hoàng, tổ khai nghiệp ra các đời chúa Nguyễn, và lúc đương thời chỉ xưng là “Tiên vương” (Chúa Tiên).

    Hay trang 252 có đoạn: “Võ Văn Dũng với Lê Văn Duyệt cũng định “vây Ngụy cứu triệu”, khi dự định tấn công Phú Yên hòng đánh về Gia Định nhưng lại bị Nguyễn Văn Thành chặn lại”. Đọc câu này, đọc giả yêu lịch sử sẽ phải chững lại rồi ngẫm ra: Võ Văn Dũng là tướng của nhà Tây Sơn, Lê Văn Duyệt là tướng nhà Nguyễn, sao lại cùng nhau cầm quân đánh một tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thành? Ở đây, tên Trần Quang Diệu phải thay vào chỗ tên Lê Văn Duyệt mới đúng.

    Hoặc có khi tác giả có lẽ không chú ý tính logic của vấn đề khi cho rằng năm 1558, Nguyễn Hoàng và các bề tôi thân tín của mình vào Nam và “sẽ phải nằm xuống ở nơi đất khách quê người và phải 250 năm sau, hậu duệ của họ mới có thể quay lại mảnh đất Thăng Long” (trang 208)…Trong khi ngay trang sau, tác giả đã nhắc lại việc Nguyễn Hoàng đưa quân Bắc ra giúp vua Lê, chúa Trịnh trong suốt 8 năm, từ 1592 (trong sách ghi nhầm thành 1692) đến tận năm 1600 mới thật sự trở về Thuận Hóa lần cuối….

    Tuy nhiên cũng bởi người viết cũng như người soát bản thảo không phải là dân chuyên ngành nên mới để xảy ra những sai sót đáng tiếc như vậy. Dẫu vậy, nhìn một cách tổng thể, đây vẫn là một cuốn sách hay, đáng đọc và nên đọc.

     

     

     

  • Tiểu sử Machiavelli – Sự kiến giải cho một con người đầy nghịch lý

    Tiểu sử Machiavelli – Sự kiến giải cho một con người đầy nghịch lý

    Đêm trường trung cổ cuối cùng cũng chấm dứt khi ánh sáng huy hoàng của thời kỳ phục hưng chiếu rọi khắp Châu Âu. Bất ngờ thay, ánh sáng của hi vọng ấy lại bắt nguồn từ Italy – nơi có thánh thành – nơi vinh danh quyền lực của giáo hoàng – vị chức sắc tối cao của trần thế trông, lo phận sự cho con chiên. Tại sao tôi nói đó là điều bất ngờ?

    Bởi vì, tại thời điểm đó, Giáo hội Kito của Roma dường như chẳng mấy bận tâm đến sứ mệnh vinh danh chúa. Thay vào đấy, trong kinh đô Vatican, các hồng y (chủ yếu là người Italy) ngấm ngầm tiến hành các cuộc tranh đoạt quyền lực. Nghiêm trọng hơn, họ còn lấy uy quyền thần thánh của nước chúa trời lấn áp các quyền lực các quốc gia trần thế. Các giáo hoàng liên tiếp tạo ra các xung đột, chiến tranh trên toàn cõi châu Âu khi xây dựng những liên minh làm hổ danh Chúa. Tại Italy, mọi thứ còn tồi tệ hơn nhiều khi lần lượt các hồng y, giáo hoàng mang họ Medici, Borgia ngày một tha hóa quyền lực, can dự sâu vào sự chia rẽ các tiểu quốc trong lòng lãnh thổ quốc gia này

    Thế nhưng trớ trêu thay! Thời kỳ phục hưng lại được hình thành ngay giữa trung tâm tăm tối ấy. Nó khởi đầu từ thi ca của Boccaccio và Dante rồi nhanh chóng lan rộng sang mọi lĩnh vực. Thời đại ấy sản sinh ra vô cùng nhiều thiên tài kỳ quặc mà cho đến tận bây giờ các nhà khoa học không thể lý giải nổi: vì sao một họa sĩ có phần ẻo lả như Leonardo De Vinci lại có thể là bậc thầy về các loại vũ khí chiến tranh; Michaelangelo ngoài điêu khắc lại còn biết thiết kế các công trình công sự vĩ đại. Và con người kỳ lạ hơn cả trên đất nước Italia giai đoạn này bất ngờ là Machiavelli – một công chức bậc trung – người gần như đã chết trong sự lãng quên và xem nhẹ. Mấy ai ở thời điểm đó có thể tin rằng hậu thế lại suy tôn Machiavelli như ông tổ của triết học chính trị, bậc thầy về chủ nghĩa cơ hội, thực dụng cho đến niềm cảm hứng cho những gã độc tài phát-xít điên cuồng. Cuốn sách của Unger chính là kiến giải cho những con người đầy nghịch lý như thế.

    Machiavelli – Một công chức bất tài

    Thực vậy, cho dù chủ đề cuốn sách chỉ giới hạn phạm vi trong nghiên cứu tiểu sử về Machiavelli nhưng bằng nguồn tư liệu đồ sộ được khảo cứu cùng với tư duy viết sử khá mới mẻ và hiện đại, Unger đã tái hiện ra lịch sử của nước Ý từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVI qua việc bám sát dấu chân của nhân vật chính Machiavelli. Sinh ra trong một gia đình trung lưu của Cộng hòa Florence, Machiavelli đáng lẽ có thể tiếp tục cuộc sống bình yên như cha mình, một học giả nghiệp dư với thú vui sưu tầm và đọc sách. Nhưng khao khát được góp mặt trong bộ máy chính quyền, xây dựng Cộng hòa Florence trở thành một quốc gia hùng mạnh và tiến xa hơn là chinh phục nước Ý đã khiến Machiavelli cả một đời loay hoay trong những kế hoạch dang dở. Và thú thực, Machiavelli cũng không phải là một công chức giỏi giang gì. Ông ta thu về kẻ thù gấp nhiều lần đồng nghiệp. Mọi quý tộc, quan chức có thể lực cho đến các hồng y, giáo hoàng tại Vatican đều nghi ngờ về sự trung thành của Machiavelli. Tương tự, những đóng góp của Machiavelli khi làm công chức của Florence gần như cũng không để lại thành quả gì. Kế hoạch xây dựng lực lượng dân quân của ông gần như bị tan thành tro bụi. Mà không tan tành mới là chuyện lạ khi Machiavelli còn chẳng biết xây dựng chiến thuật, sắp xếp đội hình nữa là những chuyện cao xa hơn như tổ chức một cuộc chiến.

    Một công chức bất tài như Machiavelli có lẽ đã chìm sâu trong lịch sử nếu không có những tác phẩm kỳ lạ như Quân vương, Luận về Livy, Lịch sử Florence, Nghệ thuật chiến tranh… Đó là chưa kể những vở kịch, bài thơ được xem là xuất sắc bậc nhất thời kỳ Phục hưng tại Italy. Rất khó để xác định thể loại của những tác phẩm mà Machiavelli đã viết. Chúng nằm giữa lằn ranh của sử học, chính trị học, khoa học quân sự, luật học vv.

    Machiavelli cũng không phải là một công chức giỏi giang gì. Ông ta thu về kẻ thù gấp nhiều lần đồng nghiệp. Mọi quý tộc, quan chức có thể lực cho đến các hồng y, giáo hoàng tại Vatican đều nghi ngờ về sự trung thành của Machiavelli.

    Nhưng lại là một học giả uyên bác

    Trong các tác phẩm này, Machiavelli đã cho thấy mình là một học giả vô cùng uyên bác, cẩn trọng và có phương pháp, thao tác nghiên cứu đáng nể xét trong thời đại mà ông sinh sống. Nhưng quan trọng hơn, có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử phương Tây, mới có một nhà khoa học thực hiện một “cuộc cách mạng ngược”. Đó là xây dựng mô hình nhà nước “lý tưởng” dựa trên tình hình thực tế, người cầm quyền và nhận thức của nhân dân. Có lẽ, Marchiavelli cũng là người đầu tiên hiểu rằng nhân dân nào thì chính quyền vậy. Không đi theo các triết gia đi trước như Plato hay Aristotle, Marchiavelli chủ trương hướng đến xây dựng một quốc gia trần thế đích thực. Cũng vì vậy, ông ta chấp nhận cả việc xây dựng các mô hình quốc gia độc tài, cha truyền con nối cho đến cộng hòa. Tuy nhiên dù là mô hình nào, Machiavelli cũng hướng đến một quốc gia thượng tôn pháp luật và đặc biệt là vai trò của người đứng đầu. Người đứng đầu theo quan niệm của Machiavelli phải một người dũng cảm, mưu mẹo và trên hết là đặt các quyền lợi của quốc gia, đại sự lên trên các tư lợi cá nhân của mình. Đáng tiếc là theo nghiên cứu của Unger, các nhà cầm quyền tại Florence nói riêng và Italy nói chung chỉ chăm chăm giữ lấy và làm đầy thêm khối tài sản của mình. Họ sẵn sàng trở thành những kẻ ôm gót ngoại bang còn hơn tin tưởng vào những nông dân, thợ thuyền của mình. Tự do cho Italy với họ là một sự nguy hiểm. Cũng theo Unger, ngoài những tư tưởng về nhà cầm quyền, những đóng góp khác trên phương diện lý thuyết quân sự, triết học của Machiavelly là vô cùng quan trọng. Chẳng hạn như việc xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và đề cao vai trò của lính nghĩa vụ nay đã trở thành mô hình phổ biến tại nhiều Quốc gia bởi lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội mà nó mang lại.

    Dù là mô hình nào, Machiavelli cũng hướng đến một quốc gia thượng tôn pháp luật và đặc biệt là vai trò của người đứng đầu.

    Niềm tin mù quáng của   Machiavelli

    Giống hệt như một mẫu hình công chức đích thực, điều mà Max Weber vô cùng xem trọng, nhấn mạnh trong tác phẩm Chính trị Nghề nghiệp và xứ mệnh, rất tiếc cho đến thế kỷ XIX, những công chức mẫn cán như Machiavelli luôn luôn được coi như những kẻ phản diện bởi niềm tin mù quáng vào bộ máy chính quyền mà ông ta sẵn lòng phục vụ. Điều này có thể liên hệ với nhân vật Javert của V. Hugo. Sự mù quáng của Marchiavelli là niềm tin biến Italy trở thành một quốc gia thống nhất với Florence là một trung tâm chính trị. Và để thực hiện điều đó, ông ta không từ một thủ đoạn nào từ việc chạy theo các nhà dân túy, phe quý tộc, phe cộng hòa cho đến bám chân các giáo hoàng tha hóa, đặc biệt là Clement. Tuy vậy, như đã biết phần lớn quãng đời của Machiavelli chỉ dừng lại ở một công chức tầm thường. Không ai trọng dụng ông cả. Bởi vậy những mối ác cảm về Machiavelli , những tội lỗi mà người ta gán cho ông dường như chỉ là một sự phóng đại, che giấu đi một sự thật tàn khốc: sách của Machiavelli đã đánh trúng tim đen của nhiều kẻ cường quyền . Và tội lỗi duy nhất mà Machiavelli mắc phải là đã nói đúng lại còn nói to.

    Những tội lỗi mà người ta gán cho ông dường như chỉ là một sự phóng đại, che giấu đi một sự thật tàn khốc: sách của Machiavelli đã đánh trúng tim đen của nhiều kẻ cường quyền . Và tội lỗi duy nhất mà Machiavelli mắc phải là đã nói đúng lại còn nói to.

    Sau cùng, tên tuổi của Machiavelli cũng được vinh danh từ quê nhà Florence cho đến nhiều quốc gia trên thế giới. Trớ trêu thay đó là lúc những nghiên cứu của ông gần như chỉ là những cuốn sách đọc vì mục đích giải trí. Các bộ máy nhà nước, các lý thuyết quyền lực đã vượt rất xa những nhận định của Machiavelli. Những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái đôi khi khiến người ta sẵn sàng trả giá bằng máu và nước mắt để đạp đổ cường quyền thay vì sống trong một sự im lặng vì khủng bố từ tha hóa quyền lực. Và cũng may mắn khi những nghiên cứu và nhận định của Machiavelli gần như bị bỏ quên, hoặc đọc với thái độ xem thường trong hầu hết thời gian mà nó hiện hữu. Nếu không ta thực sự không biết rằng thế giới sẽ đi về đâu nếu chạy theo tư duy của Machiavelli.

    Hải Đăng

  • “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”

    “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”

    Một giai đoạn lịch sử không thể nào quên

    Cuốn hồi ký “Những chặng đường lịch sử” sẽ giúp người đọc hình dung lại một thời điểm lịch sử, khi công cuộc cách mạng còn trong trứng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những người con ưu tú của Đảng đã đặt những viên gạch đầu tiên cho phong trào cách mạng. Có lẽ ít ai hình dung được rằng, chỉ với số ít cán bộ cốt cán, điều kiện vật chất thô sơ mà lại có thể gây dựng được phong trào rộng khắp trong quần chúng, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.

    Từng bước một, phong trào lớn mạnh dần lên. Từng trang hồi kí của Đại tướng luôn thấm đẫm cảm xúc. Lịch sử giờ đây không còn là những con số, những sự kiện, ngày tháng khô khan. Như lúc viết về sự kiện thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, có những dòng viết cứ in sâu vào tâm trí người đọc. Đại tướng đã viết“tâm tư của chúng tôi trong những giờ phút thiêng liêng đó thực khó tỏ. Bao chiến công oanh liệt của ông cha ta đời trước, của các chiến sỹ cách mạng, của nhân dân ta, phút chốc hiện ra rực rỡ trong ký ức. Nợ nước, thù nhà, oán hờn dân tộc, căm thù giai cấp, làm cho máu nóng trong người sắp sôi lên. Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đó là cả một đội quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục  nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù. Tin tưởng, náo nức, cảm động.” 

    Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đó là cả một đội quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục  nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù.

    Cuốn theo từng dòng viết của Đại tướng, chúng ta sẽ đến được ngày vui thắng lợi. Người đọc cũng sẽ hân hoan, sẽ xúc động trào nước mắt với những dòng viết chứa chan tình cảm.“Suốt các phố xá, các làng mạc ven đường, đâu đâu cũng rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Lá cờ đỏ chói như ngọn lửa tin của những người cách mạng, xuất hiện lần đầu trong khởi nghĩa Nam kỳ và sau đó lại tung bay trên núi rừng Việt Bắc, bây giờ đã tô thắm cho cả đất nước, báo tin cách mạng thành công”… “ Bên kia là thủ đô chói chang cờ đỏ. Nhìn quang cảnh nước nhà đổi thay, nhân dân vừa thoát khỏi ách đau thương của gần một trăm năm đô hộ, nô nức đón chào ngày giải phóng dân tộc, vui sướng trào lên trong chúng tôi, mừng muốn ứa nước mắt”. Cuốn hồi ký thực sự là một nguồn sử liệu vô cùng quý giá.

    Chân dung một con người vĩ đại

    Mỗi một diễn biến trên thế giới đều có tác động to lớn vào tình hình cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch là một nhà chiến lược tài ba khi Người luôn phân tích, đưa ra chủ trương, đường lối, sách lược phù hợp với từng thời điểm. Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, từ việc phân tích kẻ thù của chúng ta là ai, chọn Cao Bắc Lạng là căn cứ địa cách mạng có vai trò quan trọng như thế nào…rồi khi tổng khởi nghĩa thắng lợi, chúng ta phải làm sao trước tình cảnh đất nước chưa lúc nào phải đối diện với nhiều kẻ thù đến như vậy…Ngay từ đầu, đường lối, sách lược Người đưa ra đã khiến cho tất cả mọi người tin rằng: “ông cụ mảnh khảnh này là người gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam”. Xuyên suốt cuốn hồi ký, qua những sự kiện lịch sử như vậy, Đại tướng đã tái hiện lại khá trọn vẹn chân dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vừa hùng vĩ mà giản dị, thiêng liêng mà gần gũi, rực rỡ mà thuần khiết như ánh ban mai.
    Bởi vậy, cả dân tộc ta, chỉ bằng gậy tầm vông và dáo mác thô sơ, đã đứng lên cùng Người với một quyết tâm lớn, một  khí thế mạnh, một tinh thần diệt thù cứu nước, hy sinh dũng cảm tuyệt vời, lập nên những chiến công lớn ngay trong những điều kiện gian khó nhất.

    Dưới ngọn cờ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn gian khổ, bền bỉ,  kiên trì, để càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, tiến lên trên con đường dẫn tới một mùa xuân của dân tộc, tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”.

    “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”.