Author: Quỳnh Hoa

  • “Những ô cửa gió lộng” – Đối diện để chữa lành tổn thương

    “Những ô cửa gió lộng” – Đối diện để chữa lành tổn thương

    Anh Lưu Tuấn Anh là con trai của nhà thơ Xuân Quỳnh với chồng cũ. Sau 9 năm chuẩn bị mới có thể đủ dũng cảm để chia sẻ về gia đình – điều mà trước đây anh vẫn luôn coi là thiêng liêng và “bất khả xâm phạm”. Tập hồi ức “Những ô cửa gió lộng” ra đời, độc giả có thêm một hình dung về những nghệ sĩ tài năng trên diễn đàn văn học nghệ thuật Việt và cũng là cách để tác giả chữa lành vết thương, vượt qua những mất mát quá lớn đã xảy ra trong đời mình.

    “Kí ức là những ô cửa sổ mở ra một vùng trời bao la lồng lộng gió.
    Bầu trời trong xanh như con mắt trẻ thơ.
    Và những cơn gió của hoài niệm miên man thổi mãi…

    Lưu Tuấn Anh

    Ký ức ngọt ngào về mẹ và lý giải nguyên nhân cuộc hôn nhân đầu tiên tan vỡ

    Tập hồi ức “Những ô cửa gió lộng” của Lưu Tuấn Anh ngắn thôi nhưng mỗi dòng chữ đều chứa đựng bao kỷ niệm nhớ thương lẫn những đau xót không nguôi. Ông tái hiện hình ảnh người mẹ Xuân Quỳnh với tấm lòng bao dung, vị tha, luôn hóm hỉnh mà tràn đầy mạnh mẽ.

    Đổ vỡ ở cuộc hôn nhân đầu tiên, bà chọn ở lại khu tập thể cũ, nhà mới nhà cũ cách nhau 1 tầng để thuận tiện chăm sóc cho đứa con đầu tiên. Chặng đường học hành, công việc của con cũng một tay bà lo lắng, sắp xếp. Xuân Quỳnh cũng như bao bà mẹ khác, dành trọn vẹn tình cảm cho con. Nhưng bà hơn người khác ở chỗ là không bao giờ đánh phạt con mình. Chỉ bằng ngôn ngữ, bà đã cảm hoá được trái tim của những đứa trẻ. Đối với tác giả, Xuân Quỳnh là người mẹ không có điều gì đáng chê trách!

    Điều đó cũng khiến tôi thầm tự hỏi, một người phụ nữ vì gia đình, sống với trái tim nhân hậu và tình yêu thương con như vậy tại sao lại lựa chọn li hôn trong khi người chồng đầu tiên của  bà – nghệ sĩ Lưu Tuấn – một người nghệ sỹ gốc Hà Thành hào hoa, lịch lãm cũng là người xem gia đình là ưu tiên số 1.

    Liệu có phải tác giả có đang hơi đánh bóng tên tuổi, có hơi  lý tưởng hoá mẹ mình lên hay không? Hồi ức vốn là vậy, bao giờ cũng đậm tính chủ quan.

    Tác giả Lưu Tuấn Anh và mẹ năm 1970 – Một bức hình tràn ngập yêu thương

     Nhưng tác giả đã lý giải khá hợp lý nguyên nhân đổ vỡ của gia đình mình. Vốn nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầy say mê và khát vọng trong khi chồng cũ là một hình ảnh hoàn toàn đối lập. Ông cũng là người quá cẩn thận, ngăn nắp đến mức hà khắc khiến Xuân Quỳnh trong mắt ông trở thành một người luộm thuộm với những mơ ước viển vông. Mãi sau này, cuộc sống chung giữa tác giả với bố mình đã khiến anh hiểu tại sao mẹ lại chọn ra đi trong khi ông bà vẫn còn thương nhau.

    Vốn nhà thơ Xuân Quỳnh là người đầy say mê và khát vọng trong khi chồng cũ là một hình ảnh hoàn toàn đối lập. Ông cũng là người quá cẩn thận, ngăn nắp đến mức hà khắc khiến Xuân Quỳnh trong mắt ông trở thành một người luộm thuộm với những mơ ước viển vông.

    Những chia sẻ thẳng thắn về cha dượng Lưu Quang Vũ

    Tác giả Lưu Tuấn Anh có mối quan hệ đặc biệt tốt đẹp với cha dượng Lưu Quang Vũ. Nhưng mối quan hệ đó bắt đầu từ những định kiến không dễ vượt qua. Điều đáng nói là tác giả đã thẳng thắn chia sẻ những góc nhìn đó.

    Bởi những tư tưởng vượt thời đại của mình, độc giả có thể dễ dàng hiểu vì sao những tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã có lúc không được các nhà xuất bản chào đón. Độc giả cũng có thể hiểu vì sao ông từng thuộc diện những đối tượng bị theo dõi gắt gao. Nhưng thật bất ngờ khi biết rằng, Lưu Quang Vũ từng đào ngũ.

     Đào ngũ vốn là một chuyện tày đình đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến trước đây. Việc chia sẻ thông tin Lưu Quang Vũ từng đào ngũ là một chi tiết nhạy cảm bởi rất có thể điều đó làm ảnh hưởng đến tình cảm của những người mến mộ ông. Nhưng tác giả Lưu Tuấn Anh đã chọn lựa công bố thông tin này. Đây là một hành động táo bạo, nhưng đầy ý nghĩa của tác giả. Nó khẳng định sự chân thực trong ký ức và cách ông đối diện với lịch sử gia đình mình.

    Không có hình mẫu nào là hoàn hảo, Lưu Quang Vũ là một con người thật chứ không phải là một hình tượng. Bởi vậy ông cũng có những sai lầm. Nhưng sự lớn lao bắt đầu từ cách mà người ta sửa sai.

    Không có hình mẫu nào là hoàn hảo, Lưu Quang Vũ là một con người thật chứ không phải là một hình tượng. Bởi vậy ông cũng có những sai lầm. Nhưng sự lớn lao bắt đầu từ cách mà người ta sửa sai.

    Câu chuyện về “con anh, con tôi, con chúng ta”

    Tình cảm có những điều thật khó lý giải. Chồng cũ có thể thương và yêu chiều con riêng của vợ có lúc còn hơn cả con trai mình. Con riêng của vợ và con riêng của chồng trở thành anh em đối đãi với nhau hơn cả ruột rà…Những điều không dễ xảy ra lại đến ở đây. Tại sao? Có lẽ bởi họ vốn đã là những người tử tế. Tình yêu thương và cả nỗi đau quá lớn đã đưa họ lại gần nhau, đã khiến họ nương tựa vào nhau mà sống.

    Lưu Minh Vũ – con trai riêng của Lưu Quang Vũ với nghệ sĩ điện ảnh Tố Uyên. Nhiều năm trước đây, khi theo dõi chương trình “Hãy chọn giá đúng”, tôi đã nhìn thấy ở anh một nét đượm buồn trên khuôn mặt dù rằng lúc đó, tôi chưa hề biết những câu chuyện éo le anh trải qua. Đọc những kỉ niệm của anh Lưu Tuấn Anh về anh mới thấy cảm giác lúc đó của tôi là đúng.

    MC Lưu Minh Vũ là một người rất đa cảm. Dù anh có nở nụ cười đó nhưng gương mặt anh không thật đúng là đang cười. Đôi mắt có điều gì đó rất đặc biệt. Sáng lấp lánh nhưng cũng sâu hun hút, như cõi lòng của anh vậy. Tôi lại bật cười khi nhìn những hình ảnh có phần phát tướng của anh hiện tại. Có lẽ anh đúng thật là người có sở thích “ăn thủng nồi trôi rế”, ăn một lúc đến 3 bát phở như tác giả đã kể.

    Tôi tin họ là những người tử tế và nỗi đau đã đưa họ đến gần với nhau

    Lưu Quỳnh Thơ – con trai của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ dừng lại cuộc đời khi còn là cậu bé 13 tuổi. Giàu tình cảm, thông minh với những năng khiếu vượt trội, tác giả nói về Quỳnh Thơ bằng những gì chứa chan nhất, nồng thắm nhất. Một cậu bé hàn gắn những đổ vỡ bên trong của người lớn. Một cậu bé mang bao hy vọng. Có lẽ, nếu không nghĩ như cách tác giả nghĩ, rằng, em là người trời và phải về với trời thì chắc không bao giờ người ở lại có thể vượt qua được sự thật tàn khốc đó.

    Hơn 30 năm trôi qua kể từ mùa hạ cuối cùng của Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ và Quỳnh Thơ, nỗi đau ấy vẫn còn đó – đậm sâu trong lòng người ở lại, dù họ đã nỗ lực rất nhiều để vượt qua. Cuốn hồi ức cũng cho thấy có những hành trình chữa lành không chỉ cần thời gian mà còn đòi hỏi biết bao lòng dũng cảm.

  • Nhớ về đêm trước đổi mới với “trái bom thơ”

    Nhớ về đêm trước đổi mới với “trái bom thơ”

    “Trái bom thơ”

    Giai đoạn những năm cuối thập kỷ 70 và nửa đầu thập  kỷ 80, Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng khi vận hành nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.

    Điều đáng nói là, trước tình hình như vậy, có không ít những ý kiến “ngược chiều”, muốn cảnh báo với Đảng và Nhà nước về những nguy cơ tiềm ẩn, những vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra thì tất cả đều bị phê phán và quy chụp, đánh giá tư tưởng và phẩm chất chính trị không tốt. Bởi vậy có hiện tượng nhiều người không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám gọi đúng tên sự thật và càng không dám nói lên sự thật để khắc phục, sửa chữa. Đó là thời kỳ của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ, duy ý chí.

    Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của tác giả Phạm Thị Xuân Khải ra đời trong những suy tư về một thời kỳ nóng bỏng như thế. Lúc viết bài thơ, bà là sinh viên năm 2 của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tuy nhiên, trước đó bà đã là cán bộ cơ sở, tận mắt chứng kiến những khó khăn chồng chất, tình cảnh cơ cực, khốn khó của người lao động. Những bất cập trong cơ chế, chính sách khiến cho sự khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Phạm Thị Xuân Khải đã quyết định phải làm một điều gì đó để góp phần tạo nên sự thay đổi, thúc đẩy sự đổi mới, tìm ra lối thoát, một hướng đi mới cho cuộc sống của nhân dân. 

    Bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”  ra đời, đề cập một cách trực diện hiện thực cuộc sống, những tiêu cực trong xã hội đương thời, trực tiếp phê phán những cán bộ biến chất, thoái hoá, trù dập người ngay thẳng.  Đến nay sau 38 năm đọc lại vẫn còn giật mình bởi dũng khí “dám nhìn thẳng, nói thật” của nữ nhà thơ:

    “Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt

    Có học hành, lại phải sống cầu an

    Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”

    Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”

    “Đồng chí không bằng đồng tiền

    Bằng lòng vẫn hơn bằng cấp”

    “ Có mắt giả mù, có tai giả điếc

    Thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung

    Trấn áp đấu tranh, dập vùi khốn khổ

    Cùng chí hướng sao bầy mưu chia rẽ?

    Tham quyền cố vị

    Sợ trẻ hơn già

    Quên mất lời người xưa:

    “Con hơn cha là nhà có phúc”

    Nhà thơ Phan Thị Xuân Khải trò chuyện cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp

    Khi bài thơ đến với bạn đọc, hàng triệu độc giả xa gần tìm cho bằng được tờ báo có bài thơ ấy. Báo không đủ bán, mua không được báo thì bạn đọc chuyền tay nhau, đọc chép bài thơ vào sổ tay. Từ người trẻ đến thế hệ cán bộ lão thành, những cán bộ cấp cao của Đảng cũng tìm gặp nhà thơ.

    Lúc đó bài thơ được ví như “trái bộc phá”  gây rung chấn dữ dội để rồi làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tác giả. Từ chỗ yên bình đến trùng trùng sóng gió. Từ chỗ là cán bộ nguồn đến việc phải tự nguyện nghỉ việc nhà nước, luôn sống trong sự cảnh giác, nỗi cô đơn, sự căng thẳng, áp lực kéo dài.

    Thế nhưng, phải mãi đến năm 2006, sau 20 năm trời im lặng, tác giả Phạm Thị Xuân Khải mới có thể chính thức công bố toàn bộ “hồ sơ” của sự kiện qua cuốn sách “Mùa xuân nhớ Bác” – tự sự của tác giả”.

    Trong cuốn sách, tác giả lần lượt giải đáp những vấn đề xung quanh bài thơ như tại sao lại chọn tên bài thơ là “Mùa xuân nhớ Bác”, tại sao lại chọn công bố bài thơ vào một  thời điểm nhạy cảm là trước thềm Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tại sao hình tượng Bác Hồ lại xuyên suốt bài thơ?…

    Nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải chia sẻ, mục đích cuối cùng của bà là: “Bằng thể loại thơ giản dị nhất, dễ đi vào lòng người, được quần chúng nhân dân tiếp nhận và có tính thuyết phục, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của đông đảo bạn đọc trong mọi tầng lớp nhân dân qua đó giãi bày một cách cô đọng nhất những vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất của đất nước bằng tiếng nói chân thành, trung thực, trên tinh thần xây dựng”.

    “Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt

    Có học hành, lại phải sống cầu an

    Phải thu mình, xin hai chữ “bình yên”

    Bởi lẽ đấu tranh – tránh đâu cho được?”

    Những nỗi đau khổ

    Cuộc đời của nhà thơ Phạm Thị Xuân Khải sau khi bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” ra đời là một minh chứng cho việc “đấu tranh thì tránh đâu cho hết”. Cuốn tự sự của tác giả đã phác hoạ lại số phận cuộc đời của bà sau bài thơ đó.

    Người ủng hộ rất nhiều. Bạn đọc xa gần đón nhận bài thơ với sự đồng tình ủng hộ to lớn. Ngay cả những người lính đang làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Lào, những chiến sĩ đang canh giữ biển trời tổ quốc nơi hải đảo xa xôi cũng gửi thư về cho tác giả. Những cựu chiến binh, các cụ lão thành cách mạng, những người có công trong 2 cuộc chiến, cán bộ hưu trí, thợ mỏ, người nông dân và cả các giáo sư tiến sĩ… gửi nhà thơ đến hàng nghìn bức thư. Có người còn tìm đến tận ký túc xá Mễ Trì để gặp mặt tác giả cho bằng được.

    Người phản đối cũng vô cùng gay gắt. Sau khi bài thơ ra đời, bà trở kẻ phản bội, kẻ vong ơn bội nghĩa, bị cố tình gài bẫy, thậm chí còn có người đòi treo cổ tác giả. Các cơ quan chức năng cũng theo dõi sát sao mọi hoạt động của bà. Đó là thời gian mà tác giả căng thẳng kéo dài về mặt tinh thần. Bà gần như “đóng cửa” không tham gia vào các hoạt động xã hội, khép lòng mình lại, chỉ tập trung hoàn thành việc học , tự tìm cách xoa dịu lòng mình để vượt qua những ngày tháng gian khổ.

    Năm 1989, Xuân Khải ra trường, lương bị cắt, chỗ ở ký túc xá phải trả lại. Đi đâu, về đâu? Bà bắt đầu một “cuộc chiến” mới với gánh nặng cơm áo… Lúc đó chính đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng đã cho bà một lời khuyên rất chân tình : “Cháu ra trường đừng về Nghĩa Bình vội, để tình hình lắng xuống đã”….

     Nhiều những câu chuyện, những tình  huống , những sự việc gay cấn, nguy hiểm được tác giả bộc bạch qua trang sách. Độc giả sẽ không khỏi xót thương bởi những cay đắng nhà nữ nhà thơ đã trải qua nhưng cũng sẽ vô cùng cảm phục bởi sự dũng cảm, lòng trung thành mà bà đã dành trọn cho Đất nước, cho Đảng, cho nhân dân. Đọc cuốn tự sự bà viết, thấy rất rõ một con người mạnh mẽ, thẳng thắn, cương nghị, và đặc biệt là rất kiên định với nguyên tắc sống của mình. Khi có người nhiều lần mời  bà vượt biên, hứa sẽ lo cho bà đủ đầy về vật chất nhưng quyết định của bà là: “dám làm, dám chịu, tại sao phải trốn như một kẻ gian manh?”

    Bản thảo gốc

    Thế nhưng những gì mà tác giả có thể giãi bày cũng chỉ là những phần ít ỏi của nỗi khổ cực bà đã phải chịu đựng suốt bao năm qua. Không thể kể hết và chính tác giả cũng không muốn kể hết.

    Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.

     Với Phạm Thị Xuân Khải, kể lại những câu chuyện gian khó không phải để than vãn, oán trách mà nhìn lại để hiểu được kết quả và giá trị của công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta ngày hôm nay.  

    Phải nói hành trình đấu tranh với tư tưởng cũ kĩ, lỗi thời, hành trình nhìn thẳng sự thật, nói lên sự thật, đấu tranh với khuyết điểm, sai lầm là một hành trình rất gian khổ, đầy sự cô đơn và cần rất nhiều lòng dũng cảm.

    Phải nhìn thẳng và dám nói sự thật

    Trong nhiều năm tiếp theo sau khi bài thơ ra đời, những vần thơ tha thiết chảy bỏng “Có ai thấu chăng/ Và ai phải sửa?” vẫn thôi thúc bao người trong cuộc cuộc đổi mới mở ra từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Bài thơ không chỉ làm tác giả điêu đứng mà cả những người trong cuộc khác cũng vất vả không kém.

    Từ đồng chí Lê Đức Thọ – Uỷ viên Bộ Chính trị – Trưởng ban Tổ chức Trung ương, đồng chí Vũ Mão , Bí thư Thứ nhất BCH TW Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đến nhà báo Đinh Văn Nam – Tổng Biên tập báo Tiền Phong và nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền phong. Họ là những “dũng sĩ” trực tiếp điểm hoả cho “quả bom thơ” phát nổ.

    Trong cuốn tự sự của mình, tác giả đã rất cảm kích, trân trọng và biết ơn khi nói về những người trong cuộc đó. Cuốn sách trích dẫn nguyên văn phần ghi chép của nhà báo Lê Văn Ba – Trưởng Ban Biên tập báo Tiền Phong, trích lại bản lược ghi của nhà báo Đinh Văn Nam – nguyên Tổng biên tập tập báo Tiền Phong trong buổi làm việc với đồng chí Lê Đức Thọ sau khi đăng bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác”.

    Từ đây phác hoạ rõ nét bức chân dung của người dũng cảm, dám tiên phong cổ vũ cho cái mới, cho công cuộc đổi mới nhưng cũng là những người vất vả vì “trái bom thơ khai thông tư tưởng’, vất vả vì việc dám nói thẳng, nói thật, dám đấu tranh cho cái mới, bảo vệ chân lý và lẽ phải.

    Quả thực thời ấy, từ ý kiến cho phép đăng báo bài thơ “Mùa xuân nhớ Bác” của đồng chí Lê Đức Thọ đến việc đồng chí Lưu Văn Lợi, đồng chí Vũ Mão, đồng chí Đinh Văn Nam, đồng chí Lê Văn Ba dám quyết định đưa bài thơ lên trang báo Tiền phong là một hành động vô cùng cam đảm, không phải ai cũng dám làm, các cấp lãnh đạo không phải ai cũng sẵn sàng đồng tình tình ủng hộ.

    Để rồi những chuyển động đầu tiên đã đến.

    Khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho thư ký tìm gặp nhà thơ Xuân khải với lời nhắn: “Trung ương đã thấu và đang sửa”.

    Thời gian sau, Đảng đổi mới chính mình, thay đổi, mở rộng việc lắng nghe những  ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân.

    Đến nay, những điều gần như là cấm kỵ về đời sống văn hoá nghệ thuật của một thời đã được công khai đề cập chứ không như trước đây, chỉ râm ran trong dư luận.

    Việc nhìn thẳng, nói thật, công khai khuyết điểm, sai lầm thì thời nào cũng khó do những rào cản vô hình của nó nhưng đã không còn là điều huý kị như cách đây gần 40 năm ./

  • Ký ức theo dòng đời – Cuộc đời tận hiến của một người từng bị khai trừ Đảng

    Ký ức theo dòng đời – Cuộc đời tận hiến của một người từng bị khai trừ Đảng

    Tư liệu quý về những mũi phá rào trong phát triển kinh tế ở Việt Nam trước đổi mới

    Vào những năm 70, 80 của thế kỷ trước, khi Việt Nam vận hành một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, mang đậm tính quan liêu, bao cấp và thực hiện chính sách triệt tiêu mọi mầm mống của kinh tế tư nhân, đất nước lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.

    Đặc biệt, sau hai cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, toàn bộ mạng lưới của nền kinh tế thị trường từng tồn tại bị phá vỡ, nguồn nguyên liệu sản xuất bị cạn kiệt. Đời sống nhân dân lâm vào cảnh kiệt quệ và bế tắc kéo dài.

    Trong bối cảnh đó, lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ – Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt – đã mạnh dạn tìm kiếm những giải pháp để tháo gỡ thế bế tắc.

    Với tư duy đổi mới, ông chủ động vận dụng linh hoạt thực tiễn để cứu dân, cứu nền kinh tế thành phố. Một trong những giải pháp đầu tiên mà Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt  triển khai là tập hợp tư thương, vận dụng khả năng và các mối quan hệ của họ để nối lại dòng lưu thông hàng hoá trong nước, nối lại mối quan hệ làm ăn, buôn bán với nước ngoài. Có như vậy mới có thể phục hồi mạng lưới cung ứng và sản xuất đang tê liệt.

    Trong cơ chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và Nhà nước độc quyền về ngoại thương lúc đó, những việc làm như vậy bị xem là trái quy định, thậm chí là phạm. Phải đến sau này, những nỗ lực linh hoạt và dũng cảm ấy mới được nhìn nhận đúng giá trị, dưới tên gọi “phá rào”.

    Cuốn hồi ký “Ký ức theo dòng đời” đã tái hiện lại cách triển khai những việc làm từng được xem là bất hợp pháp đó. Từ những bước tập dượt đi buôn thời bao cấp, đến việc hình thành Cholimex – công ty cổ phần đầu tiên hoạt động dưới hình thức “công tư hợp doanh” để thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ nhà nước độc quyền về ngoại thương…

    Ông Phan Chánh Dưỡng cũng kể lại việc tham gia các chương trình thu hút kiều hối, tìm cách hợp thức hóa các hoạt động giao thương xuyên biên giới nhằm cung cấp nguyên vật liệu và hàng thiết yếu cho các nhà máy đang đứng trước nguy cơ phá sản. Những mô hình thử nghiệm này không chỉ là “phá rào” trong tư duy, mà còn là tiền đề cho những thay đổi sâu rộng sau này trong chính sách kinh tế của Việt Nam.

    Vốn là người trực tiếp dấn thân trong dòng chảy đổi thay ấy, ông Phan Chánh Dưỡng thấu hiểu tường tận từng bước đi, từng khó khăn, va vấp, cả những mất mát và hy sinh thầm lặng của một thời “phá rào” đầy giằng co.

    Chính vì vậy, những tư liệu lịch sử quý giá về một giai đoạn chuyển mình của đất nước trở nên sống động, mang đậm hơi thở cuộc sống và chan chứa cảm xúc của người trong cuộc.

    Ký ức về những người “giữ lửa”

    Dù những đóng góp của ông Phan Chánh Dưỡng mang đậm dấu ấn lịch sử, nhưng chính ông luôn nhìn nhận một cách khiêm nhường rằng, mọi nỗ lực cá nhân chỉ có thể thành hiện thực khi nhận được sự đồng hành và “giữ lửa” từ những người lãnh đạo dũng cảm, cấp tiến lúc bấy giờ.

    Ông từng chia sẻ rằng: “Hồi đó tôi còn trẻ lắm, không đủ sức đánh giá đây là một chính sách gì lớn đâu. Mình làm theo chỉ đạo là chính, nhưng khi làm như vậy thì thấy cuộc sống người dân khởi sắc hơn.”

    Quả thực, khi triển khai những giải pháp được xem là “phá rào”, tháo gỡ những ách tắc trong sản xuất ở Thành phố Hồ Chí Minh lúc đó, nếu không có sự bảo trợ mạnh tay của  Bí thư Thành uỷ Võ Văn Kiệt hay Bí thư Quận uỷ Quận 5 Võ Trần Chí thì có lẽ số phận của ông cũng như những người thực thi khác đã thêm nhiều gian truân. Phan Chánh Dưỡng đã dành một chương trong cuốn sách để nói về vai trò của những nhân vật lịch sử như vậy.

    Sau này, dấu ấn đóng góp của ông Phan Chánh Dưỡng đối với tiến trình phát triển kinh tế đất nước nói chung, và sự chuyển mình của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, được thể hiện rõ nét qua loạt dự án mang tính đột phá như khu chế xuất Tân Thuận, khu đô thị Phú Mỹ Hưng, cụm công nghiệp Hiệp Phước. Những công trình này đã góp phần làm thay đổi hoàn toàn diện mạo khu vực phía Nam Sài Gòn, biến vùng đất Nhà Bè hoang sơ, sình lầy, ngập mặn – nơi từng bị xem là bất khả thi về quy hoạch – thành một khu đô thị hiện đại, năng động và mang tầm vóc quốc tế.

    Trong đó, đại lộ Nguyễn Văn Linh – tuyến đường rộng 120m nối liền khu chế xuất Tân Thuận với Phú Mỹ Hưng – chính là “trục xương sống” cho toàn bộ sự phát triển khu vực và là niềm tự hào lớn lao của ông.

    Hành trình 30 năm ông Phan Chánh Dưỡng bền bỉ gắn bó, dấn thân, vun đắp cho từng tấc đất Nhà Bè là minh chứng cho một tầm nhìn dài hạn, một khát vọng xây dựng đất nước từ thực tiễn và một trái tim tận hiến vì cộng đồng.

    Tuy vậy, ông Phan Chánh Dưỡng cũng có những nuối tiếc riêng của mình. Điều ông trăn trở nhất là giấc mơ về một “Sài Gòn tiến ra biển Đông” – một đô thị năng động, hiện đại, hướng biển, kết nối mạnh mẽ với thế giới bằng cả hạ tầng và tầm nhìn. Giấc mơ đó, ông mới chỉ kịp đặt những viên gạch đầu tiên. Ông gửi gắm hy vọng vào một thế hệ mới đủ trí tuệ, kiến thức và sự kiên định vượt trở ngại khó khăn trước mắt, tiếp bước hành trình xây dựng một thành phố đáng sống, một đất nước hùng cường.

    Sống một cuộc đời có ích cho xã hội

    Ông Phan Chánh Dưỡng là mẫu mực của một người hàn vi từ nhỏ nhưng nhờ sự thông minh, ham học, ý chí vượt khó thành tài mà trở thành bậc trí thức, hữu ích cho xã hội. Cuộc đời ông là minh chứng cho những gì ông đúc kết:  “Nếu có ý chí vươn lên, không ngừng học hỏi thì bất cứ môi trường nào đều có thể là nơi trui rèn nên sự phát triển trí tuệ và khả năng tạo dựng nên cuộc đời hữu ích cho xã hội “

    Ngay trong những giai đoạn khó khăn vất vả nhất khi một mình bươn chải ở Sài Gòn, ông vẫn kiên định một ý chí vươn lên, dùng sự khổ luyện và tự học để thay đổi cuộc đời mình. Một chàng trai bồi bàn nghèo kiết xác vẫn không quên việc đọc sách, tự học, tự khép mình vào khuôn khổ để thi đỗ đại học. Quá trình lập nghiệp ông tự gọi mình là một anh Nam bộ “bốn không” – “không tiền, không địa vị, không có kinh nghiệm của cuộc sống đô thị xa hoa và không có mối quan hệ thân thế gia đình”. Nhưng tất cả khó khăn ông biến thành cơ hội chỉ với một suy nghĩ kiên định là: “Mình chỉ việc tiến lên phía trước một cách không hối hận, vì chẳng còn con đường nào khác hơn”.

    Phan Chánh Dưỡng chia sẻ những giá trị và nguyên tắc đã định hướng cho cuộc sống và công việc của ông đó là việc “sống vì người khác”. Chắc hẳn ai cũng sẽ dễ nảy sinh chút ít tâm lý bất mãn khi bị kỳ thị về nguồn gốc xuất thân, vốn là đảng viên lại bị khai trừ Đảng do người nhà vượt biên trái phép rồi bao gian nan, trầy trật trong công việc. Nhưng cuộc sống càng khó khăn, thử thách càng khắc nghiệt ông lại càng kiên nhẫn. Ông lùi lại để thích ứng với một suy nghĩ phải làm sao để có được những giá trị trong cuộc đời.

    Khi đọc tự truyện, chúng ta vẫn luôn biết rằng, ai cũng có một vài bí mật không muốn tiết lộ, ai cũng muốn người khác nhìn vào mình với tất cả những gì tốt đẹp nhất. Thế nhưng có lẽ với bản chất chính trực, ngay thẳng của mình, Phan Chánh Dưỡng đã  thẳng thắn “phơi bày” những góc khuất của cuộc đời mình. Chỉ việc dám thừa nhận mình đã từng trốn đi lính như thế nào, hai người em đã làm cách nào để trốn việc tòng quân…cũng đủ cho ta thấy con người đó không tô hồng, không đánh bóng bản thân mà dám nhìn thẳng vào cả ưu và nhược của chính mình.

    “Ký ức theo dòng đời ” là một tự truyện đáng đọc cho bất kỳ ai quan tâm đến lịch sử và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Phan Chánh Dưỡng là một tấm gương sáng cho những ai tin rằng, dù xuất phát điểm có khó khăn đến đâu, với ý chí và nỗ lực không ngừng, bất kỳ ai cũng có thể tạo ra những thay đổi lớn lao. Ông cũng đã chứng minh được rằng, sống một cuộc đời có ý nghĩa không chỉ là theo đuổi thành công cá nhân mà còn là những đóng góp cho cộng đồng và xã hội.

    Nếu có ý chí vươn lên, không ngừng học hỏi thì bất cứ môi trường nào đều có thể là nơi trui rèn nên sự phát triển trí tuệ và khả năng tạo dựng nên cuộc đời hữu ích cho xã hội “

  • Sách chiếu bóng của Đinh Tị – Cần hoàn thiện để mang đến những trải nghiệm trọn vẹn

    Sách chiếu bóng của Đinh Tị – Cần hoàn thiện để mang đến những trải nghiệm trọn vẹn

    Sách chiếu bóng là gì?

    “Sách chiếu bóng – Cinema book” là dòng sách do Đinh Tị Books phát hành. Đây là cuốn sách mà trẻ có thể vừa học vừa chơi trong bóng tối. Sách được thiết kế hiện đại với những hình vẽ minh họa đầy sáng tạo trên chất liệu mika. Khi có ánh sáng của đèn pin chiếu vào đổ bóng trên nền tường tạo ra một rạp chiếu phim hấp dẫn và sinh động.

     

    Ông Nguyễn Quang Tuấn – Giám đốc Đinh Tị Books chia sẻ: “Câu chuyện ra đời của sách chiếu bóng xuất phát từ ý tưởng từ những năm tháng khi chúng ta chưa có đèn điện chỉ dùng đèn dầu và bếp củi. Thế hệ của ông bà, cha mẹ ngày đó thường dùng đôi tay của mình để tạo hình thành những con rối, chơi cùng trẻ trước giờ đi ngủ và khi những hình đó đổ bóng trên tường tạo thành một “màn ảnh” rất thú vị trong mắt trẻ.

    Sách chiếu bóng ra đời mang hơi thở đó. Nghệ thuật tạo hình con rối bằng tay truyền thống đã phần nào được thể hiện trong dòng sách này.

    Những giá trị của sách chiếu bóng

    Dòng sách chiếu bóng 100% do tác giả Việt sáng tác, thiết kế. Với mong muốn là mang tới cho trẻ và các bậc phụ huynh những trải nghiệm tuyệt vời nhất, ý nghĩa nhất, góp phần lưu giữ và phát huy bản sắc dân tộc Việt.

    Điểm trừ đáng tiếc

    Tuy nhiên, điểm hạn chế của dòng sách này là chất lượng hình ảnh phản chiếu lên tường chưa đạt yêu cầu. Hình ảnh thường bị mờ, thiếu độ sắc nét, khiến trẻ phải căng mắt mới nhìn rõ được. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới thị lực của trẻ mà còn gây cảm giác khó chịu, làm giảm hứng thú khi đọc.

    Ngoài ra, một số câu chuyện khi được biên tập lại để phù hợp với hình thức sách chiếu bóng lại chưa thực sự hợp lý. Chẳng hạn, truyện “Cô bé bán diêm” – khi được Đinh Tị chuyển thể từ truyện cổ Andersen sang thể thơ – lại trở nên kém hấp dẫn với độc giả nhí. Ngôn ngữ và vần điệu trong phiên bản này còn thiếu sự chỉn chu, chưa đủ sức lôi cuốn.

    Dòng sách chiếu bóng của Đinh Tị Books sẽ chỉ thực sự phát huy giá trị khi cả nội dung và hình ảnh đều được đầu tư kỹ lưỡng, mang lại trải nghiệm trọn vẹn và hấp dẫn hơn cho độc giả nhí.

     

     

  • Để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn

    Để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn

    Luis Sepúlveda – một nhà văn và phóng viên người Chile là tác giả của cuốn sách “Chuyện con mèo dạy hải âu  bay”. Đây là cuốn sách thiếu nhi đầu tiên của ông sau cuốn tiểu thuyết “Lão già mê đọc truyện tình” đã xuất bản 18 triệu bản lưu hành toàn thế giới. Ông cũng còn 1 số tác phẩm thiếu nhi khác được khán giả đón nhận nồng nhiệt như cuốn “Chuyện con mèo và con chuột là bạn thân của nó” “Chuyện con chó có tên là Trung Thành”.  Với văn phong trong sáng, hài hước, đầy tinh tế, độc giả có thể cảm nhận được một trái tim khao khát tự do và tình yêu cũng như một tấm lòng quý giá của con người dành cho thiên nhiên và môi trường.

    Yêu thương là tôn trọng sự khác biệt

    Câu chuyện con mèo mun to đùng mập ú Zorba với cô nàng hải nâu non bé bỏng được cộng đồng mèo ở bến cảnh Hamburg chăm sóc bảo vệ từ lúc còn trứng nước được kể theo lối hóm hỉnh, phù hợp với tâm lý của các độc giả nhí.

    Lucky – con chim hải nâu non lớn nhanh như thổi trong sự bao bọc, tình yêu thương của loài mèo. Dù rằng Lucky có những thói quen như một con mèo nhưng rõ ràng, nó hoàn toàn khác biệt, từ bộ lông, đến sở thích hay những khát khao thầm kín trong lòng của một con chim non.

    Điều đặc biệt là, đối xử với những khác biệt đó, loài mèo đã vô cùng yêu thương và tôn trọng mà không hề đánh giá, phán xét hay khó chịu. Bằng chứng là, chúng đã ngày đêm tìm mọi cách để dạy cho chú chim non cách bay thay vì tạo cho nó thói quen sưởi nắng, bắt chuột như một con mèo. Và loài mèo vui với sự khác biệt đó.

     “Chúng ta đã dành cho con sự chăm sóc mà không nghĩ đến việc biến con trở thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cũng cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đình của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đã học được một điều đáng tự hào: Chúng ta học được cách trân trọng, quý mến, yêu thương một kẻ không giống chúng ta. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương ai đó giống mình nhưng để yêu thương ai đó khác mình thật sự rất khó khăn.

    Chúng ta học được cách trân trọng, quý mến, yêu thương một kẻ không giống chúng ta. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương ai đó giống mình nhưng để yêu thương ai đó khác mình thật sự rất khó khăn.

    Lý lẽ đó của loài mèo sẽ lay động đến trái tim của từng độc giả. Có lẽ, trên thế giới này, muôn loại được sinh ra cùng cội rễ sâu xa nhất chính là sự hồn nhiên của tình yêu thương. Muôn loài là muôn vàn khác biệt. Nhưng con người chúng ta, vì sự thông thái, tự mãn của mình hay vì cái tôi và sự ảo tưởng về bản thân mà đã luôn tự đặt mình vào vô vàn ranh giới, trói buộc mình trong vô vàn giá trị do chính mình vẽ nên để rồi lâm vào quẫn bách và đau khổ.

     

    Yêu thương là tận tâm chăm sóc và bảo vệ người mình thương

    Chú mèo Zorba đã chăm sóc con chim hải âu nhỏ bằng cả tấm lòng của mình. Hoá ra tình yêu thương có thể khiến một người vụng về và chưa hề có bản năng làm mẹ có thể làm tốt những điều tưởng như không thể. Zorba chăm sóc Lucky từng bữa ăn giấc ngủ, bảo vệ nó khỏi nanh vuốt của những con chuột thô lỗ, những lời chê bai, đả kích của cộng đồng xung quanh.

    Rõ ràng, đó là biểu hiện đầu tiên của tình yêu. Trước khi có thể chấp nhận sự khác biệt, tình yêu phải bắt đầu từ những hành động quan tâm, bảo vệ như vậy. Như bố mẹ luôn chở che cho con trước giông bão cuộc đời, như người thực sự yêu sẽ luôn bảo vệ đối phương trước những va đập của cuộc đời.

    Nếu không thể làm được những điều đó, với sự chân thành và tận tâm – thì làm sao gọi đó là tình yêu?

    Trước khi có thể chấp nhận sự khác biệt, tình yêu phải bắt đầu từ những hành động quan tâm, bảo vệ

    Tầm quan trọng của việc giữ lời hứa

    Lời hứa được tạo ra để làm cho người khác tin tưởng mình. Việc giữ lời hứa không chỉ chứng minh bạn là người đáng tin cậy mà còn chứng minh bạn là người có trách nhiệm.

    Con mèo Zorba dù không nghĩ mình có thể nuôi nấng hay có thể dạy được chú chim hải âu bay nhưng chỉ vì lời đã hứa trong giây phút con chim mẹ lâm chung rằng “nhất định sẽ dạy con hải âu bay” mà Zorba đã nỗ lực hết mình để làm cho kỳ được. Những lần Zorba định bỏ cuộc, lời hứa lại là động lực.

    Giữ lời hứa không chỉ là thực hiện cam kết mà còn thể hiện phẩm chất một con người. Những người chính trực và trách nhiệm là những người luôn giữ đúng lời hứa của mình. Bởi vậy mà tác giả đã viết rằng: “Mèo Zorba là con mèo tử tế, cao quý, một con mèo của bến cảng”.

    Giữ lời hứa không chỉ là thực hiện cam kết mà còn thể hiện phẩm chất một con người. Những người chính trực và trách nhiệm là những người luôn giữ đúng lời hứa của mình.

     

     

  • Người kiên trì đọc sách trong thời gian dài, tâm tính sẽ thay đổi ở 3 phương diện

    Người kiên trì đọc sách trong thời gian dài, tâm tính sẽ thay đổi ở 3 phương diện

    Đọc sách là chuyện đơn giản nhất, bỏ ra vốn nhỏ nhưng thu được lời to, ai cũng có thể đọc sách, chỉ cần bạn sẵn sàng, bạn có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào.

    Đọc sách là một trong số ít những chuyện trong cuộc sống mà chúng ta có thể tự mình kiểm soát và nắm bắt. Cuộc sống thăng trầm, trên thực tế, xét về nhiều mặt, nó đôi khi không được theo ý muốn của chúng ta, nhưng đọc sách thì lại khác, có thể do chính mình quyết định. Bạn có thể đọc nếu bạn muốn, chẳng ai quản bạn.

    Tam Mao, một nhà văn, dịch giả Đài Loan nói: đọc nhiều sách rồi, dung mạo tự nhiên sẽ thay đổi, đôi khi sẽ cảm thấy những cuốn sách mình đọc qua giống như mây khói thoảng qua, không nhớ nhiều về chúng, nhưng chúng thực ra vẫn tiềm tàng bên trong khí chất, trong cách nói chuyện và trong tâm hồn của bạn.

    Vì vậy, khí chất của bạn tiềm ẩn những cuốn sách mà bạn từng đọc qua.

    01

    Người kiên trì đọc sách, tính cách sẽ trở nên ôn hòa hơn

    Nhà văn, phóng viên Chai Jing trong cuốn sách mang tên “Nhìn thấy” kể một câu chuyện như này: có một lần cô ấy đi phỏng vấn ông chủ của một doanh nghiệp lớn, câu hỏi mà cô đặt ra vô cùng sắc bén và nhạy cảm, cách đặt vấn đề của cô cũng có phần hấp tấp, quyết liệt, thậm chí hơi lỗ mãng.

    Sau khi cuộc phỏng vấn kết thúc, vị doanh nhân đã nói với Chai Jing rằng: cô rất thông minh, có quan điểm của mình, nhưng lại không vững, có một cảm giác rất hấp tấp, kiểu “tuổi trẻ bồng bột”, cô có thể cân bằng lại bản thân thông qua đọc sách.

     

    Tôi tin rằng những lời khuyên mà vị doanh nhân đó dành cho Chai Jing là vô cùng chân thành, bởi lẽ ông ấy thấy được sự nhiệt huyết của một phóng viên đang đi tìm câu trả lời cho những thắc mắc của mình. Về phần Chai Jing, cô có thể đem câu chuyện này viết vào trong sách của mình, điều đó có nghĩa là cô ấy cũng đồng ý và tiếp nhận lời khuyên này.

    Người bốc đồng, hấp tấp, vội vàng, nên đọc nhiều sách hơn, kiên trì đọc sách sẽ làm dịu bớt sự nóng nảy trong tính cách của mình. Có thể bạn sẽ không nhận ra được những thay đổi một cách nhanh chóng, nhưng lâu dần, một ngày nào đó, bạn sẽ phải cảm ơn thói quen đọc sách này của mình.

    02

    Người kiên trì đọc sách, nhìn vấn đề sẽ trở nên khách quan và thực tế hơn

    Đọc câu chuyện của người khác, rồi ngẫm về cuộc đời mình, nhiều khi bạn sẽ nhận ra được sự phản chiếu trong đó. Hàng trăm năm trước, trạng thái tâm lý của nhân vật, suy nghĩ về cuộc sống của họ trong những hoàn cảnh nhất định, sự hoảng sợ và vật lộn đối mặt với cuộc sống, thực ra cũng không khác nhiều so với người hiện đại khi đối mặt với cuộc sống của chính họ ngày nay. Nói cách khác, bản chất con người không thay đổi nhiều.

    Những người đọc sách lịch sử có thể cảm thấy sâu sắc hơn. Sự thăng trầm của thế giới, dòng chảy, thời gian, không gian khác nhau, nhưng luôn có chung một câu chuyện. Các thế hệ tương lai sẽ tiếp tục thực hiện các quy tắc và trò chơi tương tự lặp đi lặp lại.

    Vì vậy, khi bạn đọc nhiều những thứ như vậy, bạn sẽ nhận ra rằng hiện thực cuộc sống có thể sẽ không lệch khỏi phương hướng mà nó nên đi. Nếu bạn tham khảo, bạn có lẽ sẽ ngộ ra được lộ trình hoặc quỹ đạo trong sự phát triển của một sự vật nào đó.

    Người kiên trì đọc sách sẽ “ngắm” được rất nhiều thứ, vì vậy, khi bạn suy ngẫm về cuộc sống của mình, rồi xem xem câu chuyện của những người xung quanh, bạn sẽ trở nên khách quan và thực tế hơn. Bạn sẽ không còn quá cho mình là nhất hay quá tự ti về bản thân. Bạn sẽ dùng một ánh mắt sắc bén, một cái nhìn đa chiều hơn để quan sát cuộc sống, từ đó sống một cuộc sống phong phú và trọn vẹn hơn.

     

    03

    Người kiên trì đọc sách, tâm thái sẽ trở nên nhã nhặn, phóng khoáng hơn

    Một nhà Nho nói: khí chất của con người, rất khó thay đổi, chỉ có đọc sách mới có thể thay đổi được nó.

    Đọc sách có thể giúp ai đó thay đổi từ một người thích tranh luận, để tâm quá nhiều, thậm chí là bảo thủ thành một người rộng rãi linh hoạt, nhìn nhận vấn đề đa chiều hơn.

    Đọc sách là quá trình học hỏi và tham khảo tư tưởng cũng như trải nghiệm của người khác, đó cũng được xem là kinh nghiệm sống. Khi bạn có nhiều thông tin trong đầu, bạn sẽ có nhiều tài liệu tham khảo hơn, và khi tình huống tương tự xảy ra, bạn sẽ có thể tìm ra được một gợi ý để giải quyết vấn đề.

    Đọc sách thực chất là nói chuyện với những con người thông minh và cao thượng. Sách là nhịp cầu vượt qua giới hạn của thời gian và không gian, gắn kết những con người không liên quan, những con người khiêm tốn và những con người vĩ đại lại với nhau để họ cùng nhau giao lưu, tâm sự về cuộc sống. Càng đọc nhiều sách, chúng ta sẽ càng bớt bối rối về tinh thần, mở rộng tầm nhìn và mở rộng cả tâm hồn.

    Tôi thường xuyên cho rằng đọc sách là một việc giống như kiểu “há miệng chờ sung” vậy, là một việc quá hời cho người đọc, bởi lẽ chúng ta có thể đọc được sự kết tinh của trí tuệ của người khác mà không cần bỏ ra thời gian suy nghĩ, viết lách, chỉnh sửa hay in ấn…

    Khi cô đơn, đọc sách khiến tôi không còn cảm thấy cô độc.

    Khi trống rỗng, đọc sách khiến tôi không còn cảm thấy muộn phiền.

    Khi buồn bã, đọc sách khiến tôi giải tỏa những cảm xúc tiêu cực.

    Khi bi quan, đọc sách khiến tôi phấn chấn lại tinh thần…

    Nguồn Internet, tác giả Hân Vũ

  • Có một đường mòn trên biển Đông

    Có một đường mòn trên biển Đông

    Những con người bình thường vĩ đại

    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuyến chi viện quân sự chiến lược trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con đường huyền thoại. Cùng với tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã kết nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, vận chuyển kịp thời, hiệu quả vũ khí và lực lượng, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975.

    Chiến tranh kết thúc, dấu tích của con đường huyền thoại cũng chìm sâu trong mặt biển mênh mông, câm lặng. Nhà văn Nguyên Ngọc với ngòi bút giàu tình cảm, đã kể lại cho người đọc hành trình đi tìm lại những con người từng góp công sức lớn lao xây dựng nên con đường mòn trên biển – những con người anh dũng, quả cảm, trí tuệ, tài năng mà chưa một lần được sử sách ghi danh hay có chăng chỉ là dòng chữ ngắn ngủi.

    Giai đoạn mở đường với nhiệm vụ: phải đi khảo sát vùng bờ biển Bà Rịa, tìm nơi lập bến, cho người ra Bắc đón tàu dẫn súng đạn về. Có những con người, như đồng chí Dương Quang Đông – một người lính vô danh của một tiểu đội vô danh, đói khát, len lỏi tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ. Chính đồng chí là người đã đưa ra ý tưởng táo bạo – bố trí một bến đón bí mật từ cửa sông Ray – ngay sát căn cứ của địch. Ý tưởng này cùng những chuyến đi sinh tử sau đó đã góp phần khai thông con đường huyền thoại nhưng trong cuốn dự thảo Lịch sử lữ đoàn Hải quân 125, tên của đồng chí Dương Quang Đông chưa một lần được nhắc đến.

    Câu chuyện về má Mười Rìu – một người phụ nữ kì lạ, với 10 đồng bạc mà dựng nên cơ nghiệp cho cách mạng. Má có thể mua một chiếc thuyền sáu tấn có máy đẩy Yama, một giàn lưới lớn, mấy tấn xăng dầu, hàng chục tấn gạo để phục vụ cho những cán bộ cách mạng trong những ngày mở đường gian khó…

    Không chỉ có 2 con người đó, hàng trăm, hàng ngàn con người ngày đêm âm thầm mà sôi nổi, ngày đêm mưu tính ngược xuôi để cuối cùng con đường mòn trên biển đã được khai thông với cả một mạng lưới các bến liên hoàn từ Bà Rịa đến Cà Mau.

    Di tích bến K15 tại Đồ Sơn (Hải Phòng), nơi xuất phát những con tàu không số chi viện chiến trường miền Nam

    Tiếp sau giai đoạn mở đường là giai đoạn mà con đường trên biển đi vào hoạt động chính thức trong sự bí mật tuyệt đối. Nhưng rồi với sự kiện Vũng Rô – chấm dứt giai đoạn hoàn toàn bí mật này để chuyến sang giai đoạn mới. Đoàn tàu vận chuyển hàng hoá phải hoạt động công khai trước sự kìm kẹp gắt gao của kẻ thù.

    Nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm ra những con người, những số phận âm thầm vô danh mà sự đóng góp của họ lại vô cùng vĩ đại. Cả đoàn thuỷ thủ hàng chục người sẵn sàng “quên sinh” để kẻ thù không thể lần tìm ra manh mối của những con tàu không số, những người phụ nữ hy sinh đời mình sống trong cô độc thậm chí miệt thị của người khác để giữ vững bí mật danh tính những chiến sỹ đoàn tàu không số….

    Còn biết bao số phận khác cũng như vậy – đó chính là nhân dân, cụ thể, âm thầm, vô danh, như mặt đất, như biển, khiến người đọc xúc động, tự hào về lịch sử bi tráng của dân tộc.

    Đó chính là nhân dân, cụ thể, âm thầm, vô danh, như mặt đất, như biển, khiến người đọc xúc động, tự hào về lịch sử bi tráng của dân tộc.

    “Sự bình thường chỉ có ở những người trong sáng”

    Những con người hiển hách, góp công sức lớn lao cho cách mạng như vậy, khi chiến tranh kết thúc họ lại trở về làm một người bình thường. Với những gì đã hy sinh có mấy ai dễ dàng chấp nhận sống một cuộc đời bình thường như thế.

    Má Mười Rìu – bà má huyền thoại quay trở về làm người đàn bà sống bên làng chài ven biển, bán vô số thứ vật dụng linh tinh, lộn xộn, không tên. Đồng chí Dương Quang Đông cũng vậy, trở về cuộc sống đời thường là một cụ già giản dị, chậm rãi mang đậm dáng dấp của người “công nhân Ba Son”…

    Họ là những con người chiến đấu hy sinh cho Tổ quốc mà không mưu cầu bất kỳ danh lợi gì, không mong được đền ơn, không mong được trả lại…Lý lẽ của họ đơn giản chỉ là : “Rồi xương máu của anh em ai trả”.

    “Có một đường mòn trên biển Đông” không chỉ đem đến cho người đọc hình dung về lịch sử tuyến đường trên biển chi viện vũ khí lực lượng cho chiến trường Nam mà còn một lần nhắc nhớ chúng ta về giá trị cốt lõi trong đời sống con người. Sống một cuộc sống bình thường vốn đã là điều tốt đẹp.

    Bởi lẽ, cũng như nhà văn Nguyên Ngọc từng nói: “Không dễ từng sống anh hùng trong chiến tranh rồi lại sống bình thường trong hoà bình đâu. Sự bình thường là một đức tính, chỉ có ở người thật trong sáng”.

    Không dễ từng sống anh hùng trong chiến tranh rồi lại sống bình thường trong hoà bình đâu. Sự bình thường là một đức tính, chỉ có ở người thật trong sáng

     

     

  • Bạn làm gì khi bị phản bội?

    Bạn làm gì khi bị phản bội?

    Không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng

    Khi bị phản bội, ai cũng sẽ cảm thấy cay đắng và mất niềm tin. Nhưng điều quan trọng là, chúng ta sẽ đối mặt như thế nào? Có người sẽ tự làm lành vết thương rồi đứng dậy mà bước tiếp. Nhưng cũng có người lại rơi vào hố sâu tuyệt vọng và trở nên…hận đời.  Nhân vật người cha trong “Cánh đồng bất tận” là một trường hợp điển hình như vậy.

    Cha của Điền và Nương vốn là một người đàn ông nồng ấm, yêu thương vợ bằng những cử chỉ thật thà. Vậy nhưng từ ngày vợ bỏ đi theo một người đàn ông buôn lụa trên bến ghe, con người ấy như đã chết. Thay vào đó là một người đàn ông lặng lẽ, cay nghiệt.

    Sáng sớm ông vẫn thường đánh hai đứa nhỏ vì hoang hoải, vì chán chường và cũng vì con bé Nương nó vô tình giống mẹ đến lạ lùng. Lâu dần rồi ông cũng không thèm đánh nữa. Lòng ông lạnh lẽo và bỏ mặc hai đứa con, mặc cho chúng đói khát, cô đơn, thất học hay hiểm nguy rình rập. Chúng như cỏ cây bám níu lấy nhau, đứng từ xa nhìn cha đắm chìm trong nỗi đau bị phản bội.

    Chúng như cỏ cây bám níu lấy nhau, đứng từ xa nhìn cha đắm chìm trong nỗi đau bị phản bội.

    Rồi người đàn ông đó tìm cách làm đau phụ nữ để xoa dịu nỗi đau của chính mình. Ông khiến người ta mến thương rồi hy vọng. Những ai đánh đổi gia đình, đi theo ông và hai đứa nhỏ, sẽ bị bỏ rơi theo cách bẽ bàng và tủi hổ nhất. Như người đàn bà ở Bàu Sen chẳng hạn. Chị đã bỏ lại đứa con thơ, xóm làng, ngôi nhà, vườn tược…gần như là tất cả để theo ba cha con nhưng rồi sau một đoạn đường, người đàn ông đó bảo chị lên bờ mua một ít củ cải muối mà đạp ghe đi mất với nụ cười làm hai đứa nhỏ không bao giờ quên được.

    “Đó là cái cười vừa dữ dội, vừa đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã.”…Đó không phải là người đàn bà duy nhất mà người đàn ông đó bỏ lại.

     

    Trong khi người cha mải miết chạy trốn chạy nỗi đau bị phản bội thì hành trình đó lại mang đến cho hai đứa trẻ những nỗi đau bất tận. Chúng đã lớn lên mà không tình yêu thương, không bè bạn, không sự sẻ chia. Chúng có lúc đã khao khát đến vô vọng một tiếng người và một cuộc sống…bình thường. Dần dà chúng trở nên lập dị mà người cha chỉ hay biết nỗi đau của đời mình.

    Nguyễn Ngọc Tư đã thành công khi kể về cuộc sống lênh đênh, nghèo nàn, hiu quạnh của ba cha con trên một chiếc thuyền. Cuộc sống đó ám ảnh người đọc, lấy đi nước mắt của người đọc và cũng để một lần nhắc nhớ người đọc rằng: Mỗi quyết định của cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến cuộc đời con trẻ như thế nào. Người lớn có những nỗi đau có thể không bao giờ lành miệng, nhưng không thể, không được phép bắt con trẻ phải cùng mình gồng gánh những nỗi đau đó.

    Hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu có thể là do số phận, nhưng thay đổi hoàn cảnh để nó tốt đẹp lên hay bi kịch hơn, hoàn toàn do sự lựa chọn và quyết định của chính chúng ta. Bởi lẽ, “không có hoàn cảnh nào tuyệt vọng, chỉ có người tuyệt vọng vì hoàn cảnh” mà thôi.

    Hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu có thể là do số phận, nhưng thay đổi hoàn cảnh để nó tốt đẹp lên hay bi kịch hơn, hoàn toàn do sự lựa chọn và quyết định của chính chúng ta.

    Quy luật nhân quả

    Một quy luật của cuộc sống là, dần dà, rồi chúng ta sẽ phải trả giá một cách đầy đủ cho từng lỗi lầm, từng hành động sai trái và sẽ được đền đáp một cách xứng đáng cho mọi cố gắng và mọi việc làm tốt đẹp của mình.

    Người đàn ông đó đã phải trả giá vì những nỗi đau mình gây ra cho những người phụ nữ vô tội bằng cuộc sống đắm chìm trong sự tuyệt vọng mãi mãi, không thể thoát ra khỏi niềm đau. Người cha đó đã phải trả giá vì đã huỷ hoại cuộc đời hai đứa trẻ bằng việc mãi mãi mất đi đứa con trai giàu tình cảm, mà đau đến sững sờ khi nhận ra, con gái rơi vào hoàn cảnh hiểm nguy cũng không cầu cứu cha mình.

    Trời đất đã trừng phạt người cha đó bằng một hình phạt đớn đau đến tận cùng. Đó là những thằng thanh niên mạt hạng, giữ ông đúng một tư thế, bắt ông phải chứng kiến cảnh chúng thay nhau hãm hiếp con gái ông. Lúc đó đôi mắt ông ầng ậc nước thì cũng còn có nghĩa lý gì đâu?

    Cuộc đời cũng đã cho một đứa trẻ kịp hiểu rằng, mình chính là nguyên nhân khiến mẹ bỏ đi, khiến cho tai ương ập đến với gia đình. Nhưng phải chính lúc Nương bị đám thanh niên hãm hiếp thì em mới nhận ra rằng, suy nghĩ lâu nay của em về mẹ, rằng mẹ bỏ nhà theo trai, rằng hình ảnh em tận mắt chứng kiến mẹ với người đàn ông bán lụa trần trụi với nhau không như những gì em nghĩ.

    Phải khi chính em bị đày đoạ thân xác, lúc đó em mới hiểu ra rằng “cái vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó”.

    Cái vẻ mặt má tôi cái hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi, tại sao tôi không nhận ra điều đó

    “Cánh đồng bất tận” đã khép lại như vậy, để lại trong lòng người đọc những nỗi buồn mênh mông, về cuộc đời, về con người, về gia đình, tình cảm cha con, mẹ con.  Hơn hết, “cánh đồng bất tận” sẽ nhắc nhớ chúng ta về quy luật nhân quả sớm muộn, sẽ đến với tất cả mọi người trong hành trình của cuộc đời mình.

     

  • Tướng về hưu – người lạc loài trong thời đại mới

    Tướng về hưu – người lạc loài trong thời đại mới

    Ông Thuấn là tướng về hưu. Dù tốt bụng và nồng hậu nhưng chỉ 01 năm sau khi rời quân ngũ, cuộc sống mới đã làm ông bạc tóc nhanh hơn cả cuộc đời chinh chiến của mình. Bởi lẽ thực tế là những điều có chết ông cũng chưa bao giờ hình dung ra.

    Trở về nhà mình, ông day dứt lương tâm khi thấy các con cho mẹ già lại lẫn ăn riêng ở riêng. Ông xót thương nhìn cảnh ông Cơ, cô Lài – những người dù mang tiếng được cưu mang nhưng về nhà ông lại phải làm không hết việc.

    Ông phẫn nộ khi chứng kiến cảnh Thuỷ – con dâu mang những nhau thai nhi, bỏ vào phích nước, đem về nấu cám cho chó ăn.

    Điều đáng nói ở đây là, trước tất cả những điều ông bất bình đó thì những người xung quanh ông lại cho rằng mọi việc là bình thường.

    Nguyễn Huy Thiệp, bằng ngòi bút trào phúng, dửng dưng, khúc chiết đã khắc hoạ lại bức tranh đời sống xã hội nửa nông thôn nửa đô thị lúc đó với những sự thực dụng đến đốn mạt, hèn kém, táng tận lương tâm.

     

    Nguyễn Huy Thiệp, bằng ngòi bút trào phúng, dửng dưng, khúc chiết đã khắc hoạ lại bức tranh đời sống xã hội nửa nông thôn nửa đô thị lúc đó với những sự thực dụng đến đốn mạt, hèn kém, táng tận lương tâm.

    Nguyễn Huy Thiệp đã đề cập đến một vấn đề quan trọng của tâm lý con người thời kỳ quá độ. Nếu trong những ngày bao cấp, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh, con người sống với nhau trọn vẹn nghĩa tình, đề cao giá trị chung và phấn đấu cho lý tưởng, thì giờ đây, khi bước sang một kỷ nguyên mới, giá trị con người đề cao là tiền bạc, vật chất.

    Cuộc sống bởi vậy có lúc trở nên thật khủng khiếp. Và đương nhiên, những người tốt nhưng xưa cũ như tướng Thuấn về hưu sao có thể hoà nhập. Ông đau khổ, lạc lõng và cuộc đời trôi dài trong bi kịch.

    Bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của ông tướng về hưu đó là sự bất lực đến nhu nhược. Nếu trước đây ông có thể chỉ huy cả trung đoàn tiến quân ra trận, lời nói của ông tựa như thiên lệnh, hàng nghìn người răm rắp nghe theo, thì bây giờ, điều ông có thể làm chỉ là thở dài. Mạnh mẽ hơn là gào lên phẫn nộ. Ông bất lực trước cuộc sống kim tiền, đau khổ khi nhận thấy mình lạc loài trong cuộc sống mới. Ông làm được gì để thay đổi cuộc sống hôm nay?

    Có lẽ những người sinh ra từ cuộc chiến, trưởng thành trong đạn bom chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc từ trong đó. Ngày nhận được giấy báo của đơn vị rằng cần ông trong trận chiến, ông như trẻ lại, cuộc sống như được hồi sinh. Có lẽ sự hy sinh của ông sau đó cũng là một kết cục tốt đẹp mà tác giả muốn dành cho con người tử tế nồng hậu nhưng lạc thời như trung tướng Nguyễn Thuấn.

    Trong tác phẩm “Tướng về hưu” tác giả khẳng định một chân lý vẫn là: “Không một ai là hoàn toàn xấu và cũng không có ai là tốt hoàn toàn”. Ngay cả người được coi là xấu nhất, nếu chịu khó nhìn kỹ, theo dõi kỹ, ta vẫn cảm nhận được không ít điều hay lẽ phải với những nét hấp dẫn mà chưa chắc người bình thường đã có.

    Nhà văn hóa M. Twain (Mỹ) có nói: “Ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen”. Nguyễn Huy Thiệp  khi viết về những con người “lỗ mãng, táo tợn, làm đủ điều phi nhân bất nghĩa”, tác giả vẫn dành cho họ những lời thông cảm… “ Lão ấy tốt nhưng nghèo”. Lão Bổng dù vô liêm sỉ nhưng cũng biết rung động trước cái đẹp và đặc biệt là còn biết nhục. Khi người chị hấp hối bị lẫn không gọi được tên ông, chỉ nói được ông “là người” thì ông oà lên khóc: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng này gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn, chỉ có chị gọi em là người”.

    Những kẻ vô liêm sỉ dẫu sao vẫn còn biết nhục và còn biết thổn thức khi được tôn trọng. Đây chính là cái nhìn đầy triù mến và bao dung với những phận người rẻ mạt.

    “Ai cũng có một vầng trăng và một đám mây đen.

     

  • Sử Việt 12 khúc tráng ca

    Sử Việt 12 khúc tráng ca

    12 khúc ca trong cuốn sách là 12 câu chuyện lịch sử về các vị vua đã có công dựng nước và giữ nước. Tác giả không chỉ đưa người đọc đến với những vị anh hùng như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… mà còn kể đến những nhân vật quan trọng chưa được đánh giá đúng mực như Khúc Hạo, hay những địa danh bị bụi thời gian phủ mờ như thành Bình Lỗ, đầm Thi Nại.

    Tác phẩm lịch sử không hề khô khan bởi tác giả đã lựa chọn được những điểm ly kỳ,  hấp dẫn để kể lại từ đó mà hậu thế có thể có được một hình dung sinh động về quá khứ. Như việc phân tích về kỹ thuật đóng cọc trên sông Bạch Đằng giúp người anh hùng Ngô Quyền chấm dứt hơn 1000 năm Bắc Thuộc. Hay việc giải đáp chuyện bí ẩn vua Quang Trung hành quân thần tốc, lý giải vì sao lãnh thổ dân tộc có diện mạo hình chữ S như ngày hôm nay…

    Sử việt 12 khúc tráng ca hấp dẫn còn bởi lịch sử các vương triều Việt  được kể lại với những cuộc tranh đoạt ngôi vương, những mâu thuẫn nội tộc, những vụ án ly kỳ và cả những nghi án lịch sử. Nếu lịch sử Trung Hoa kỳ vĩ và hấp dẫn hậu thế bởi đã khai thác thành công những yếu tố đó thì chắc chắn rằng, nếu sử Việt thật sự được khai thác một cách triệt để nhất, độ hấp dẫn ly kỳ cũng chẳng kém ai.

    Điều đặc biệt là từ những câu chuyện lịch sử tác giả đã đúc kết thành những bài học quý. Nếu công lao của dòng họ Khúc là kiện toàn hệ thống hành chính từ trung ương đến địa phương với những cải cách gần dân và ở cấp cơ sở để tạo tiền đề cho Ngô Quyền 30 năm sau chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc một cách đường đường chính chính thì rõ ràng, bài học mà tiền nhân để lại chính là: “Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi có nền móng vững chắc, một con người chỉ thành công khi có cái gốc vững vàng.

    “Một ngôi nhà chỉ yên ấm khi có nền móng vững chắc, một con người chỉ thành công khi có cái gốc vững vàng.

    Hay như khi phân tích về bi kịch mất nước của nhà Hồ, tác giả đã làm rõ bài học về lòng dân. Sở dĩ giang sơn dù thuộc về nhà Hồ, nhưng lòng dân thì không nên vương triều này đã không thể đối đầu với quân Minh.

    Trước khi chiến tranh xảy ra, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. 600 năm rồi câu nói ấy vẫn chứa bao uẩn ức và là một bài học mà hậu thế không bao giờ được phép lãng quên.

    Tuy nhiên cuốn sách sẽ hoàn hảo hơn nếu không có một số sai sót. “Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, tức Nguyễn Thái Tổ, niên hiệu Gia Long” (trang 255). Ngoài vấn đề danh hiệu, vì khi đó Nguyễn Ánh mới xưng vương, phải đến năm 1806 mới xưng là hoàng đế, thì miếu hiệu Nguyễn Thái Tổ là một nhầm lẫn lớn.

    Bởi vì sau khi vua Gia Long mất, triều thần mới đặt miếu hiệu của ông là Nguyễn Thế Tổ. Miếu hiệu “Thái Tổ” được vua Gia Long dành để suy tôn cho chúa Nguyễn Hoàng, tổ khai nghiệp ra các đời chúa Nguyễn, và lúc đương thời chỉ xưng là “Tiên vương” (Chúa Tiên).

    Hay trang 252 có đoạn: “Võ Văn Dũng với Lê Văn Duyệt cũng định “vây Ngụy cứu triệu”, khi dự định tấn công Phú Yên hòng đánh về Gia Định nhưng lại bị Nguyễn Văn Thành chặn lại”. Đọc câu này, đọc giả yêu lịch sử sẽ phải chững lại rồi ngẫm ra: Võ Văn Dũng là tướng của nhà Tây Sơn, Lê Văn Duyệt là tướng nhà Nguyễn, sao lại cùng nhau cầm quân đánh một tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thành? Ở đây, tên Trần Quang Diệu phải thay vào chỗ tên Lê Văn Duyệt mới đúng.

    Hoặc có khi tác giả có lẽ không chú ý tính logic của vấn đề khi cho rằng năm 1558, Nguyễn Hoàng và các bề tôi thân tín của mình vào Nam và “sẽ phải nằm xuống ở nơi đất khách quê người và phải 250 năm sau, hậu duệ của họ mới có thể quay lại mảnh đất Thăng Long” (trang 208)…Trong khi ngay trang sau, tác giả đã nhắc lại việc Nguyễn Hoàng đưa quân Bắc ra giúp vua Lê, chúa Trịnh trong suốt 8 năm, từ 1592 (trong sách ghi nhầm thành 1692) đến tận năm 1600 mới thật sự trở về Thuận Hóa lần cuối….

    Tuy nhiên cũng bởi người viết cũng như người soát bản thảo không phải là dân chuyên ngành nên mới để xảy ra những sai sót đáng tiếc như vậy. Dẫu vậy, nhìn một cách tổng thể, đây vẫn là một cuốn sách hay, đáng đọc và nên đọc.