Author: Quỳnh Hoa

  • Con không ngốc, con chỉ thông minh theo cách khác

    Con không ngốc, con chỉ thông minh theo cách khác

    Tôi tin khi các trò và thầy cô cầm cuốn sách này lên tay ai rồi cũng sẽ bị cuốn vào ngay những trang sách đầu tiên. Lư Tô Vỹ viết về chính mình, về những tháng ngày ấu thơ với bao thăng trầm, vật vã, khổ sở, bởi bệnh tật để chiến thắng bản thân. Chặng đường trưởng thành của tác giả có quá nhiều chông gai, trắc trở, thử thách để “tìm thấy chính mình” và “nhìn thấy thiên tài trong chính mình”.

    Nhưng hơn hết, tác giả đã đưa người đọc đến nhiều cung bậc cảm xúc về tình cảm gia đình thiêng liêng cao quý, tình thầy trò thân thiện ấm áp bao dung…những cung bậc tình cảm ấy chắc chắn ai đọc được sẽ không thể ngăn được dòng nước mắt dâng trào xúc động.

    Cuốn sách dày hơn ba trăm trang, được chia thành ba phần theo những mốc phát triển đáng ghi nhớ của tác giả.

    Phần thứ nhất với dòng tên tiêu đề “SINH MỆNH ĐƯỢC NHẶT LẠI” tác giả đã đưa người đọc về những hồi ức ấu thơ không có bình yên. Lư Tô Vỹ là đứa con cầu tự được sinh ra trong hoạn nạn nhưng được nuôi dưỡng như bao đứa trẻ bình thường khác.

    Năm lên 8 tuổi, Vỹ bị một trận sốt huyết Nhật Bản người ta còn gọi là sốt huyết viêm màng não. Vỹ vật vã, ngoi ngóp chống lại bệnh tật giành giật sự sống. May mắn từ cõi chết trở về mặc dù Vỹ chỉ là đứa trẻ bại não – người thực vật nhưng Vỹ vẫn có tinh thần lạc quan vui vẻ nhờ những lời động viên của người thân “được sống thật tốt biết bao”, “là người, dù người thế nào cũng không quan trọng, chỉ không biến thành quỷ là được rồi”.

    Một đứa trẻ đi học không nhớ mặt chữ, không nhớ nổi các con số, không biết đường đi đến trường và buộc phải theo học lớp “giáo dục đặc biệt”…đã trở thành “nhân vật đặc biệt” trong mắt thầy cô và bạn bè. Những người thân luôn thương yêu và quan tâm, động viên chăm sóc Vỹ. Khi trò khác được 9 điểm cũng có thể bị bố mẹ cho ăn roi “Giao hẹn trước là thiếu một điểm thì ăn mười roi, nào nằm xuống” hoặc quát mắng gây áp lực làm biến đổi tâm lý, tính cách biến trẻ trở lên lầm lì, rụt rè hay chống đối. Nhưng với Vỹ lại được thưởng ăn đùi gà chiên vì đã rất nỗ lực để đạt được điểm 1.

    “Vỹ ơi! Con có điểm thật này, điểm 1 cơ đấy”, “giỏi lắm, giỏi lắm”. Đọc phần này tin rằng ai đã làm cha làm mẹ sẽ nhận ra mình cần làm gì, cần thay đổi như thế nào để trao yêu thương cho con mình trọn vẹn.

    “Vỹ ơi! Con có điểm thật này, điểm 1 cơ đấy”  “Giỏi lắm, giỏi lắm”

    Lư Tô Vỹ luôn cho mình là CHÚ CHIM LẠC LOÀI BAY CHẬM qua những hồi ức của phần 2 cuốn sách. Vẫn lối viết văn bằng lời kể chuyện sinh động, tác giả đã đưa người đọc đến với nhiều trạng thái cung bậc cảm xúc trước những tình huống diễn ra cuộc đời.

    Từ tiểu học cho đến trung học, Vỹ luôn có những thành tích học tập kém. Đó là những chuỗi ngày đau khổ và thất bại dẫu cố gắng nỗ lực không ngừng. Vỹ luôn tự ti và cảm thấy cô đơn như cánh chim lẻ loi phiêu bạt.

    Vỹ kìm nén khát khao được bằng bè bằng bạn, ước muốn được thầy cô biểu dương, khen thưởng và hơn hết là muốn tự lập để không dựa dẫm vào người thân….

    Rồi một ngày Vỹ “nhìn thấy niềm hy vọng mới”, những khát khao của Vỹ có thể trở thành hiện thực. Tất cả những điều làm thay đổi Vỹ vẫn từ tình yêu thương vô bờ bến với những hi sinh cao cả của người thân trong gia đình, là sự ân cần giảng dạy của thầy cô và những người bạn tốt. Tất cả đã đồng hành cùng Vỹ từng bước, từng ngày làm người đọc vô cùng cảm động. Hai phần đầu của cuốn sách đã lấy đi khá nhiều nước mắt của người đọc.

    Tất cả những điều làm thay đổi Vỹ vẫn từ tình yêu thương vô bờ bến với những hi sinh cao cả của người thân trong gia đình, là sự ân cần giảng dạy của thầy cô và những người bạn tốt

     Phần ba của cuốn sách, nội dung: “NHÌN THẤY THIÊN TÀI TRONG CHÍNH MÌNH” là những câu chuyện Vỹ kể lại, đã tác động lên lý trí của người đọc. Với sự dìu dắt đầy tình yêu thương của các thầy cô, Lư Tô Vỹ đã đánh thức được trí tuệ của mình.

    Cả một quá trình dài nỗ lực phấn đấu học tập để “nhận ra chính mình”, “biết được chính mình” và “hiểu rõ chính mình”. Vỹ đã rút ra “ Không có gì là không học được chỉ là do chúng ta chưa tìm ra phương pháp học tập thích hợp nhất với bản thân mà thôi”. Từ một đứa trẻ thiểu năng trí tuệ Vỹ đã tiến tới bục của “người thông minh”. Dẫu 7 năm với 5 lần thi đại học mới đỗ thì điều này chúng ta đều thấy sự kỳ diệu của Lư Tô Vỹ – một đứa trẻ bại não. Thành công của Vỹ được đánh đổi bằng mồ hôi, bằng những cơn đau đầu vật vã, những giọt nước mắt đắng cay tủi hờn…

    “Con không ngốc, con chỉ thông minh theo một cách khác” là một món quà của cuộc sống vô cùng ý nghĩa với chúng ta. Với các trò khi đọc cuốn sách ngày sẽ có thêm nhiều động lực, nhiều quyết tâm cố gắng học tập thực hiện được nhiều ước mơ các em đang ấp ủ. Chắc chắn rằng các em cũng sẽ học được nhiều cách ứng xử với bố mẹ, thầy cô và những người xung quanh, các em sẽ ngoan hơn, lễ phép hơn, có trách nhiệm với những lời nói và hành động của bản thân hơn.

     Cuốn sách cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh, đánh thức các bậc phụ huynh, các thầy cô còn đang luẩn quẩn xoay vòng trong những suy nghĩ, thái độ áp đặt, kỳ vọng thái quá về con em mình, nhất là những trẻ “đặc biệt”.

    Thầy cô sẽ làm chủ được những cơn nóng giận, yêu thương học trò của mình nhiều hơn, hy sinh cho các con nhiều hơn, nói những lời động viên, khích lệ nhiều hơn để một ngày có thể phát hiện ra kho báu trí tuệ trong các thế hệ học trò đã được chính mình giáo dưỡng, khơi dậy thiên tài từ ý thức học tập, ý thức dám nghĩ, dám làm, dám ước mơ của con em mình và đưa con em mình chạm đến vầng hào quang lung linh kỳ diệu của cuộc sống.

    Hãy nói những lời động viên, khích lệ nhiều hơn để một ngày có thể phát hiện ra kho báu trí tuệ trong các thế hệ học trò đã được chính mình giáo dưỡng, khơi dậy thiên tài từ ý thức học tập, ý thức dám nghĩ, dám làm, dám ước mơ của con em mình và đưa con em mình chạm đến vầng hào quang lung linh kỳ diệu của cuộc sống.

     

    Bùi Minh Huế

     

     

     

     

  • Cuộc sống hữu hạn, hãy yêu thương

    Cuộc sống hữu hạn, hãy yêu thương

    “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm thế nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”.

    Đó chính là câu nói nổi tiếng của người người nghệ sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn. Đến nay, năm tháng đi qua, tác giả của câu nói cũng đã về với cõi vĩnh hằng nhưng bạn đọc, đặc biệt là giới mộ điệu đều phải công nhận một điều rằng, ở trong địa hạt nào – nhà thơ, nhà văn hay nhạc sĩ, tài tử họ Trịnh đều để lại cho đời những dấu ấn riêng, những giá trị nhất định, khó có thể phai mờ.

    Có thể nói, dù là trong âm nhạc, thi ca hay văn học, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt những tác phẩm của ông đều tập trung ở hai yếu tố xoay quanh con người, đó chính là: Thân phận và tình bạn – tình yêu. Sự thống nhất hài hòa giữa ba mặt tư tưởng – tác phẩm – con người đã hình thành nên một Trịnh Công Sơn với chất riêng, rất giản dị, gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc, triết lý.

    Viết về nhiều thân phận, tuy nhiên ông đặc biệt dành tình yêu thương, lòng biết ơn vô bờ bến của mình cho mẹ và cuộc đời tần tảo mà bà đã dành cho con cái.

    “Có một người đàn bà yêu thương tôi và tin tưởng tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà hi sinh tất cả tính mang. Đó là mẹ tôi”

    “Có một người bạn trung thành với tôi nhất trên đời này, người ấy có thể vì tôi mà từ bỏ hất tất cả mọi của cải, mọi thứ ân sủng quý giá nhất. Đó là mẹ tôi”

    Mẹ tuy là một thân phận bé nhỏ nhưng bằng tình yêu thương rộng lớn của mình, bà trở nên vĩ đại hơn bao giờ hết. Xuyên suốt tác phẩm Trịnh Công Sơn, tôi là ai là ai, ta thấy được mạch tư tưởng của Trịnh thường lấy cái hữu hạn so với cái vô cùng. Thân phận, tình yêu, cuộc sống mỗi người là cái hữu hạn – cuộc đời rộng lớn, hạnh phúc, khổ đau, hạnh ngộ, chia ly là những điều vô cùng. Để rốt cuộc, khi nhìn thấy được hai mặt của đời sống, con người biết chấp nhận, sống trọn vẹn, bao dung và yêu thương nhiều hơn.

    Khi nhìn thấy được hai mặt của đời sống, con người biết chấp nhận, sống trọn vẹn, bao dung và yêu thương nhiều hơn.

    Với Trịnh Công Sơn, cái hữu hạn đã thúc đẩy con người khao khát tìm đến một điều gì trường tồn, không thể biến mất, đó chính là tình bạn, tình yêu. Quan niệm về tình bạn và tình yêu được Trịnh đề cập khá nhiều trong những áng văn của mình.

    Lúc so sánh giữa hai thứ tình này, ông cho rằng “May thay trong cuộc đời này có tình yêu vừa có tình bạn… Tôi thấy tình bạn quý hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không còn tái tạo được nữa”.

    Và có lẽ không ít người cũng đã bắt gặp hình ảnh của bản thân trong câu nói: “Khi người ta trẻ, người ta nghĩ ᴄó thể dễ dàng từ bỏ một mối tình. Vì người ta nghĩ rằng những hạnh phúᴄ, những điều mới mẻ nhất ѕẽ đến trong tương lai. Cũng ᴄó thể. Nhưng người ta đâu biết rằng những gì ta mong muốn ᴠà ᴄần nhất ᴄhỉ đến một lần trong đời”.

    Để rồi suy cho cùng thì: “Hãy yêu như đang sống và hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại và sống cho tình yêu có mặt”.

    Tựu chung lại, qua cuốn sách “Trịnh Công Sơn – Tôi là ai là ai”, người nghệ sĩ tài hoa cho ta thấy được tác giả đã nhìn cuộc sống đang diễn như nó vốn có, một tư tưởng rất giống Phật giáo, không trốn tránh thực tại và gửi đến bạn đọc thông điệp ý nghĩa – chúng ta cần chấp nhận, bao dung, dùng tình yêu, sự tử tế để đối đãi với những người chung sống.

    Đó là tư tưởng rất mới, lạc quan chứ không hề mang nặng sự bi quan, bị lụy mà nhiều người lầm tưởng về ông. Ngay tại thời điểm bây giờ, đây vẫn là lối suy nghĩ tích cực đáng được noi theo. Chúng ta đứng trước sự hữu hạn của đời sống, hãy dùng tình yêu thương, bao dung để  một lần nữa xích lại gần nhau hơn.

    Chúng ta đứng trước sự hữu hạn của đời sống, hãy dùng tình yêu thương, bao dung để  một lần nữa xích lại gần nhau hơn.

    Lưu Hồng

  • Nghĩa hiệp và chính trực

    Nghĩa hiệp và chính trực

    Khu tập thể quân đội Nam Đồng được xây dựng năm 1964, là một trong những khu binh gia lớn nhất của Hà nội thời chiến tranh chống Mỹ. Có khoảng 500 gia đình sĩ quan đã từng sống ở đây. Cuốn sách “Quân khu Nam Đồng” tái hiện lại cuộc sống của những đứa con các gia đình quân nhân – những đứa trẻ thông minh, dũng cảm, nghĩa hiệp nhưng hơi chệch hướng đã làm cho Quân khu Nam Đồng trở nên khét tiếng một thời.

    Những đứa trẻ nghĩa hiệp chệch hướng

    Việt, Hoà, Anh Sơn, Tiến Thọt, Tuấn Mím…là những đứa trẻ Nam Đồng lớn lên trong chiến tranh, cha đi chiến đấu biền biệt, mẹ tăng gia sản xuất không có thời gian quan tâm, dạy dỗ…Dù thông minh nhưng kết quả học hành của chúng luôn lẹt đẹt bởi lẽ, chúng đánh nhau quá nhiều.

    Trong bức tranh kể về cuộc sống của những đứa trẻ quân khu Nam Đồng thời đó, những trận đánh của chúng chiếm khá nhiều dung lượng. Bắt đầu từ trận đánh Ô Chợ Dừa, chúng đánh nhau với bọn trấn lột ở cổng trường để bảo vệ cho đám con gái, những đứa nhỏ bé và những em học sinh lớp dưới… Trận đánh rạp chiếu phim thì diễn ra khi đám trẻ Nam đồng thấy 02 thanh niên mặc quần áo bộ đội bạc phếch, đánh túi bụi một cậu bé trai khoảng 13 – 14 tuổi…

    Với chúng Khu Nam Đồng đánh nhau luôn xuất phát từ chính  nghĩa, trừng trị kẻ xấu, bảo vệ người vô tội, trong mức độ nào đó còn giúp xã hội trật tự hơn, giảm đi các băng nhóm và thanh thiếu niên hư hỏng”. Quả thực, chúng đã dùng hết sức mình để thực hiện lời tuyên ngôn đó.

    Khu Nam Đồng đánh nhau luôn xuất phát từ chính  nghĩa, trừng trị kẻ xấu, bảo vệ người vô tội,  trong mức độ nào đó còn giúp xã hội trật tự hơn, giảm đi các băng nhóm và thanh thiếu niên hư hỏng”

    Tuy nhiên, tất cả mọi việc đều cần có chừng mực. Là những thanh niên mới lớn, những đứa trẻ Nam Đồng có quá nhiều năng lượng. Có lúc chúng đánh nhau vì những lý do lãng xẹt và đầy tính manh động. Manh động đến mức cầm búa đập vào đầu khiến con nhà người ta phải nhập  viện. Có những đối tượng bị chúng đánh phải điều trị gần chục ngày, đầu khâu nhiều mũi nhưng theo lời chúng mô tả thì rất nhẹ. Chúng đầy bản năng, bất trị, bạo liệt và…chệch hướng.

     Cuối cùng điều gì đến cũng buộc phải đến.

    Những đứa trẻ quả cảm, đầy khí phách nhưng hơi chệch hướng đã dừng lại những trò đánh nhau cho đến khi xảy ra một sự việc nghiêm trọng.

    Chúng đánh chết người.

    Số phận của những đứa trẻ Nam đồng từ đây mỗi người một hướng. Đứa nhập ngũ, đứa vào tù, đứa tiếp tục theo học… Nhưng kỳ lạ là, dù ở đâu, chúng vẫn luôn cùng nhau thực hiện một điều: giữ gìn hình ảnh quân khu Nam Đồng.

    Tác giả Bình Ca, với giọng văn dì dỏm hài hước nhưng đầy chiều sâu đã lôi cuốn người đọc hồi hộp theo dõi những trận đánh của đám trẻ quân khu. Cùng với đó là trò quậy phá tuổi học trò với những rung động đầu đời tưởng mơ hồ mà quá đỗi sâu đậm. Người đọc có lúc bật cười với những câu chuyện hồn nhiên, chân thật, đầy sinh động nhưng cũng có lúc ngậm ngùi với những phân đoạn buồn về số phận những đứa trẻ. Rõ ràng là không phải ai cũng được ông trời ưu ái.

    Giá trị của lòng chính trực

    Chất lính của những đứa trẻ quân khu Nam Đồng không chỉ ở tinh thần nghĩa hiệp mà còn ở lòng chính trực. Khi Quốc Tẩm khi lấy trộm tiền của mẹ, Hoà đã khuyên: “Mình là con nhà lính, làm chuyện gì cũng đàng hoàng… Nếu mày không vượt được qua lần này thì sau mày sẽ lại ăn cắp tiền của mẹ mày nữa”. Nếu chúng đã nhận thức được điều đó là sai, thì lòng chính trực mãnh liệt trong chúng sẽ thôi thúc cho đám trẻ nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm của mình.

    Câu chuyện về Đỗ – bí thư chi đoàn là một câu chuyện buồn. Đến tận cùng, những đứa trẻ Nam Đồng vẫn đặt niềm tin vào người đã giúp đỡ chúng, tạo điều kiện cho chúng được “cảm tình Đoàn”. Vậy nhưng sự thật thì không chối bỏ được. Khi chúng biết Đỗ phản bội, làm thầy Toàn tổn thương, là người bí mật báo cáo với cô giáo những trò nghịch dại của chúng, là người đã trốn tránh nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi…thì từ đó cả lớp cũng không ai nhắc đến Đỗ nữa. Mấy chục năm sau cũng không ai gặp lại nó, dù nó vẫn ở trong làng Nam Đồng.

    Trong lòng mọi người, đặc biệt là những đứa trẻ quân khu, Đỗ đã chết từ ngày đó. Làm sao trong trái tim của sự ngay thẳng và chính trực có chỗ cho sự phản bội và lòng giả dối.

     

    Mấy chục năm sau cũng không ai gặp lại nó, dù nó vẫn ở trong làng Nam Đồng. Trong lòng mọi người, đặc biệt là những đứa trẻ quân khu, Đỗ đã chết từ ngày đó.

    Trái ngược với Đỗ là Giang cận. Anh bí thư chi đoàn bị cách chức vì bị cảm hoá ngược. Trong một lần Giang cận tiếp cận với Hoà, Khanh để khuyên bảo các bạn dừng lại những  trò đánh nhau thì  cũng chính lần đó, Giang cận “gia nhập” vào đội nhóm những đứa trẻ quân khu với những trận đánh nhau gây kinh hồn bạt vía. Với tính cách dũng cảm, gan lì và đàng hoàng, dù có bị công an nhốt vào đồn thì Giang cận sẽ vẫn luôn khai báo một cách trung thực, đánh bao nhiêu đứa, dùng vũ khí gì. Vậy nên Giang cận sẽ luôn là đứa vào đồn đầu tiên và ra khỏi đồn cuối cùng. Nhưng với tố chất thông minh trời phú, nó ở đâu cũng là đứa dẫn đầu và luôn là người mà đám trẻ quân khu Nam Đồng nể nhất.

     Từ bức tranh ký ức về những đứa trẻ Nam Đồng mà tác giả Bình Ca kể lại người đọc vừa có thêm một hình dung hoàn toàn khác về chiến tranh, vừa một lần được nhắc nhớ về những giá trị cốt lõi trong đời sống con người như tinh thần nghĩa hiệp và lòng chính trực. Ở bối cảnh nào thì đó vẫn sẽ mãi là những phẩm chất đáng quý mà mỗi người cần tu dưỡng, rèn luyện và vươn tới.

     

     

  • Học cách yêu con

    Học cách yêu con

    Hãy yêu thương

    Mọi vấn đề xung đột giữa người và người đều bắt đầu từ cái tôi. Bởi vậy, ở phương Tây, có một ngôi trường mà ở đó các nhà phân tâm học đề xuất rằng, chừng nào đứa trẻ còn được nuôi dưỡng bởi cha mẹ thì chừng đó thế giới này sẽ không có được sự bình yên.

    Đề xuất của các nhà phân tâm học chứa một phần sự thật. Đó là, nếu trẻ em không được sống trong tình yêu thương, sự chở che từ cha mẹ thì chúng cũng sẽ không hình thành nên cái tôi. Tuy nhiên, ý tưởng đó chứa phần nhiều nguy hiểm. Một đứa trẻ được nuôi dưỡng trong sự thờ ơ và thiếu tình yêu thương, chúng có thể sẽ không gặp vấn đề về cái tôi nhưng sẽ gặp nhiều vấn đề khác, có khi còn nguy hiểm hơn nhiều. Chúng sẽ là một mớ hổ lốn, một kẻ lóng ngóng, vụng về, không biết mình là ai. Thậm chí chúng sẽ luôn sợ hãi vì cảm giác không một ai yêu thương chúng.

     

    Một đứa trẻ, cũng như tất cả chúng ta, cần tình yêu để không cảm thấy sợ hãi, để cảm thấy rằng mình được chấp nhận, mình có phần đặc biệt, và mình có sức mạnh nội sinh.

    Nếu trẻ em được nuôi dưỡng trong một môi trường thiếu vắng tình yêu chúng sẽ có thể không có nhiều vấn đề về cãi vã nhưng chúng sẽ không có sức mạnh để đứng lên sau những vấp ngã của cuộc đời. Chúng có thể trở nên lập dị và lệch tâm. Đó cũng không phải là tình huống hay ho. Vậy nên chúng ta cũng không cần phải quá nghiêm khắc và thiết quân luật khi con chúng ta còn là một đứa trẻ.

    Một đứa trẻ, cũng như tất cả chúng ta, cần tình yêu để không cảm thấy sợ hãi, để cảm thấy rằng mình được chấp nhận, mình có phần đặc biệt, và mình có sức mạnh nội sinh.

    Đừng can thiệp

    Nếu món quà lớn nhất mà các bậc cha mẹ có thể dành cho con cái là tình yêu thương thì điều tốt đẹp mà cha mẹ dành cho con thực chất đó là việc đừng can thiệp. Mọi cách thức nhằm đỡ đầu đứa trẻ đều sai. Chính ý nghĩ đó đã là không đúng. Đứa trẻ cần tình yêu chứ không cần sự giúp đỡ. Trên thực tế, cha mẹ can thiệp quá nhiều và quá sâu vào cuộc sống của con cái. Và bởi danh nghĩa là sự giúp đỡ người khác nên không ai từ chối. Dĩ nhiên, đứa trẻ cũng còn quá nhỏ để từ chối.

    Và đây là một trong những việc khó khăn nhất của những bậc làm cha làm mẹ. Đó là đừng can thiệp. Tất cả những gì bạn cần làm và nên làm là hãy yêu thương và đừng can thiệp. Hãy ấm áp và và hãy chấp nhận. Đứa trẻ có một năng lực tiềm ẩn, và không có cách nào biết được nó sẽ trở thành người thế nào. Do đó, bạn không thể đề xuất: “Anh nên giúp đứa trẻ theo cách này”. Mỗi đứa trẻ là duy nhất, do đó không có cách chung nào cho tất cả.

    Cách đúng đắn nhất là không giúp gì cả. Nếu bạn thực sự can đảm, đừng giúp gì cả. Chỉ cần yêu thương và nuôi dưỡng những đứa trẻ. Hãy để những đứa trẻ làm điều chúng muốn, đến nơi nó thích, ăn món chúng thấy hấp dẫn, chơi trò chơi chúng yêu.

    Cách bày tỏ tình yêu đối với đứa trẻ là để chúng hoàn toàn vô tư, không bị gò bó trong bảy năm đầu đời, để nó được hoàn toàn tự do, không theo bất kỳ tín ngưỡng nào. Đó mới là tình yêu đúng nghĩa mà cha mẹ cần trao đi cho con cái của mình.

    Nếu bạn thực sự can đảm, đừng giúp gì cả. Chỉ cần yêu thương và nuôi dưỡng những  đứa trẻ.

  • Mất hy vọng là mất tất cả

    Mất hy vọng là mất tất cả

    Một cuộc chiến tàn bạo

    Xuyên suốt trong tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh”, Bảo Ninh khắc hoạ lại diện mạo một cuộc chiến mà lâu nay  lịch sử vẫn gọi tên là cuộc chiến thần thánh. Đúng, đó là cuộc chiến thần thánh khi “châu chấu có thể đánh thắng voi”. Nhưng những bạo tàn của nó thì ít ai hình dung được.

    Chiến tranh đã biến một vùng đất thành Truông Gọi Hồn, xoá sổ không biết bao tiểu đội, đã giam cầm con người để họ biến thành “một con vượn rất to, phải bốn người kéo ra mới khiêng nổi con thú ấy về lán của đội trinh sát. Nhưng lạy Chúa tôi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch được bộ lông thì ôi giời đất ơi, con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bàn béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược”.

    Cuộc sống của những người lính – những người vẫn được gọi là anh hùng điêu tàn đến khốn khổ. Họ phải sống trong những cảnh tưởng mà “máu tung xối, chảy toé, ồng ộc, nhoe nhoé” “đạn bắn phọt óc con người” “những tấm ni lông quấn đầy tử sĩ”…Chân trời chết chóc mở ra mênh mang, vô tận những nấm mồ …

    Chiến tranh đã biến những người lính vốn là những người nông dân giản dị, dịu hiền, có cách nhìn đời nhân hậu trở thành những người có thói hiếu sát, máu hung tàn, tâm lý thú  rừng, ý chí tối thăm và lòng dạ gỗ đá.

    Chiến tranh cũng đã biến thân phận một con người trở thành phận con sâu cái kiến. Như Can một chàng lính vì không vượt  qua nổi sự khốc liệt của cuộc chiến, anh đào ngũ và chết trong rừng sâu với đầy sự nhục nhã. “Can chết rồi còn đâu. Bữa đó vệ binh chỉ lượm được cái xác. Cái xác lở loét, ốm o như xác nhái bị dòng lũ xô tấp lên một bãi lau lầy lụa. Mặc của xác chết quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục… Hai hố mắt như hai cái tăng xê, chưa gì đã mọc rêu xanh lè…” Tên tuổi của một người từng vào sinh ra tử không kém cạnh ai và vốn hoàn toàn không phải đồ tồi đã ra đi như vậy.

    “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp của dòng giống con người”. Rõ ràng, hoà bình là cái cây mọc lên máu, tính mạng, cuộc đời của biết bao con người. Đối với những người lính, những người đã ngã xuống lại là những người đáng được sống nhất.

    “Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp của dòng giống con người”.

    Những tâm hồn không lối thoát

    Kiên là nhân vật dẫn dắt trong tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Dù là người may mắn sống sót để tận hưởng thành quả hoà bình nhưng cuộc sống với anh chẳng dễ dàng gì.

    Chứng kiến những cái chết của đồng đội, theo dần năm tháng, những luồng tử khí đã hoà thành tiềm thức, trở thành bóng tối trong tâm hồn anh, không thể nào vươn lên nổi. Kiên đau khổ, dày xé, bị ký ức chiến tranh bóp nghẹt.

    Về với thời bình, chỉ cần nhìn thấy những cảnh lính Mỹ mặc áo giáp trên truyền hình, anh đã không thể  bình tĩnh nổi. “Tôi sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng”. Thời đại mới đối với Kiên không phải là những hy vọng về tương lai tốt đẹp mà tâm hồn mỗi ngày thêm hoang phế, vật vờ toàn những hồn ma bóng quỷ. Anh như mắc kẹt lại trên cõi đời này.

    Không chỉ Kiên mà thế hệ anh cũng không ít người lâm vào hoàn cảnh tương tự. Như Vượng – cựu binh thiết giáp, bốn năm trời lái T54  hoành hành ở miền Đông. Vượng ban đầu cũng hồ hởi xây dựng cuộc sống mới với ước mong tiếp tục được lái xe, xe tải, xe con, xe khách, tàu lu và kiên quyết không đụng đến một giọt rượu. Nhưng di chứng của chiến tranh khiến anh khi lái xe, những đoạn nhún nhảy, êm êm, mềm mềm là oẹ, nôn chóng mặt đến buông cả tay lái. Anh bị hội chứng” sợ mặt đường”. Vậy là rượu xâm chiếm cuộc đời anh. Đó chính là những người không thể nào nhấc chân ra khỏi cuộc chiến.

    Nếu trong tác phẩm “Bến không chồng” những con người hậu chiến dù có những méo méo về tâm hồn, có phải chịu đựng bao nỗi đau thương thiệt thòi từ thời cuộc thì trong họ vẫn còn hy vọng, vẫn còn khao khát vươn lên kiếm tìm những ngày tháng bình yên. Còn trong “Nỗi buồn chiến tranh”, nhân vật của Bảo Ninh đã hoàn toàn lụi tàn và chìm đắm trong hố sâu ký ức. Kiên cũng như nhiều người khác chỉ có thể tìm thấy hơi thở cuộc sống trong những ký ức đau thương, dữ dội, trong đạn bom chém giết.

    Đó là khi chiến tranh đã chiến thắng, cái ác, tính phi nghĩa đã chiến thắng. Cuối cùng là tác giả cũng đành đi phải đi đến cái kết với một thoả hiệp rằng: “Tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự quên lãng xói mòn,  tâm hồn anh mãi mãi được sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã mai một hoặc đã già cỗi và biến tướng. Anh sẽ được trở lại với tính yêu, tình bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua muôn ngàn đau khổ của chiến tranh…Bởi vì thế mà anh vĩnh viễn được sống trong những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng chứa chan tình người…”

    Tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ… Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình  bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua muôn ngàn đau khổ của chiến tranh…Bởi vì thế mà anh vĩnh viễn được sống trong những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng chứa chan tình người…”

    Phận tình yêu khốn khổ

    Tất cả những câu chuyện tình trong “Nỗi buồn chiến tranh” đều buồn đến bi thương.

    Câu chuyện về HơBia, Mây, Thơm với các đội viên trinh sát là câu chuyện tình bi thảm và mông muội. Ba cô gái bị chiến tranh cầm tù giữa rừng sâu núi thẳm đã khoả lấp nỗi khát khao tuổi trẻ của cả một tiểu đội. Trong chiến tranh đã không còn luân lý. Tính phi lý và tội lỗi trong mối duyên tình chung đụng, dan díu, san sẻ của những người con gái con trai vừa mới đôi mươi khiến người đọc vừa đau đớn, vừa xót thương, không nỡ lòng một câu ngờ vực hay giận tủi. Chiến tranh đã biến những điều to lớn trở nên bé nhỏ cùng những mong muốn buồn vui bé nhỏ trở thành nỗi niềm không bao giờ được nhắc đến.

    Chiến tranh đã khiến bao tình yêu trở nên xa xót như câu chuyện tình giữa Kiên và Phương. Rõ ràng, đó là những tình cảm tự nhiên, thuần khiết đầy mãnh liệt. Nhưng chiến tranh đã chia cắt lứa đôi. Dù rằng Phương mãnh liệt và không ngại định kiến xã hội nhưng sự chần chừ và nỗi lo sợ trong Kiên lớn hơn niềm tin mà anh giành cho cô ấy.

    Anh đã không đáp một tiếng gọi của Phương trong đêm tối mịt mù mà để rồi cả đời anh sống trong dày vò, hối hận. Kiên rốt cuộc cũng chỉ là người đàn ông nhu nhược bị chiến tranh làm cho hoang dại, tạ tàn. Cả cuộc đời chìm đắm trong nỗi nhớ và niềm day dứt với Phương.

    Người đọc sẽ cảm thấy ngột ngạt trước tình yêu của Kiên đối với Phương, đôi khi thầm tự hỏi, điều gì đã làm nên nông nỗi đó? Là do Kiên hay do chiến tranh? Do đạn bom hay do sự nhu nhược của một người đàn ông không dám nắm bắt lấy hạnh phúc của cuộc đời? Nhưng làm sao dám khi cả xã hội chỉ đang sống cho một lý tưởng duy nhất là độc lập. Làm sao dám khi với chiến tranh, cái chết là vô nghĩa.

    Rốt cuộc họ cũng chỉ là nạn nhân của bạo lực, của lòng tham, của những chết chóc mà thôi.

    Vậy là, bức tranh về cuộc chiến thần thánh của dân tộc mà nhà văn Bảo Ninh đã tái hiện lại qua câu chuyện của mình đầy bi thương nhưng cũng là sự thật, là bản chất, là những mặt trái. Đó là những điều không ai có thể chối bỏ và hậu thế mãi mãi phải khắc ghi.

     

     

     

     

     

     

     

  • Hành trình về phương Đông – Hãy đọc khi rơi vào khủng hoảng

    Hành trình về phương Đông – Hãy đọc khi rơi vào khủng hoảng

    Có lẽ khi người ta bị rơi vào hố sâu của tuyệt vọng, thì hạnh phúc là khi được nhìn thấy một tia sáng chiếu xuống. Và tia sáng đó của mình có lẽ chính là cuốn sách: “ Hành trình về Phương Đông”.

    Khi bạn 3 tuổi, bạn khủng hoảng vì phải đi học mẫu giáo, nhưng khi bạn 22 tuổi, bạn cũng khủng hoảng vì buộc phải tốt nghiệp đại học nghĩa là không ai nuôi bạn nữa, và bạn phải tự mình vật lộn với đời.

    Mình của những ngày 22, 23 tuổi đã rơi vào vòng xoáy khủng hoảng đó. Lúc đó công việc bấp bênh, bắt nạt từ ma cũ, tình yêu dở dang, cảm giác thất vọng vì không đáp ứng được kỳ vọng của bố mẹ. Vậy là mỗi ngày, sau một công việc nhàm chán, mình lại nằm dài lên giường, chán nản, sợ hãi, trầm cảm, mang trong mình sức trẻ nhưng lại sống như cái xác không hồn ngày này qua tháng khác. Rồi tới một ngày, vô tình bắt gặp audio về cuốn sách Hành trình về phương Đông, lúc đầu mình chỉ thu hút bởi giọng đọc rất cuốn hút, và rồi từ từ mình bị cuốn vào nó lúc nào không hay.

    Tác giả đã dẫn mình từ sự u mê này tới sự u mê khác, nhưng là một sự u mê mạch lạc, là khi đã cầm cuốn sách lên thì khó để có thể bỏ xuống. Những điều tưởng chừng như vô lý, những hiện tượng mà có lẽ khoa học có lẽ khó giải thích, sức mạnh tiềm ẩn bên trong của con người, lòng nhân ái sẽ đưa chúng ta đi xa hơn và vượt qua được những khó khăn trong cuộc đời này…

    Đôi khi mình thắc mắc, tại sao mình lại sinh ra trên cõi đời này, tại sao mình lại sống, tại sao lại như thế này, mà không phải như thế khác… Nhưng tất cả đã được lý giải, cặn kẽ, chi tiết, và đầy thuyết phục trong cuốn sách. Từ một con người sợ ma, sợ chết, sợ đủ thứ, mình đã mạnh mẽ và sống có mục đích hơn rất nhiều. Cái giá của trưởng thành là không biết tâm sự cùng ai, và có lẽ không phải ai cũng đủ hiểu mình để tâm sự, rồi rơi vào một trạng thái vô định, nhưng những lúc như vậy hãy tìm đến sách, khi đủ duyên để được gặp và được đọc một cuốn sách đầy chân lý, bạn sẽ thấy tim mình như bừng sáng lên vậy đó.

    Lòng nhân ái sẽ đưa chúng ta đi xa hơn và vượt qua được những khó khăn trong cuộc đời này

    Rồi sau đó mỗi ngày mình đều nghe radio, mua sách về đọc. Mình đã không dưới 10 lần mua rồi tặng, mua rồi tặng cuốn sách này cho người khác.Và giờ đây khi mình đã gần 30 tuổi, trong phòng mình vẫn luôn có cuốn sách này, để mỗi lúc thấy thiếu động lực, mệt mỏi, mình lại lôi nó ra đọc.

    “Your life is your message to the world. Make sure it’s inspiring.”

    Cuộc đời bạn chính là thông điệp của bạn gửi đến thế giới này. Hãy truyền đi một thông điệp tích cực và đầy cảm hứng. Mình rất thích câu nói này, và hôm nay mình truyền cảm hứng của cuốn sách này tới mọi người này. Enjoy nó thật nhiều nhé, rồi bạn sẽ bắt gặp bạn ở một phiên bản tốt hơn rất nhiều.

  • Tiểu sử Machiavelli – Sự kiến giải cho một con người đầy nghịch lý

    Tiểu sử Machiavelli – Sự kiến giải cho một con người đầy nghịch lý

    Đêm trường trung cổ cuối cùng cũng chấm dứt khi ánh sáng huy hoàng của thời kỳ phục hưng chiếu rọi khắp Châu Âu. Bất ngờ thay, ánh sáng của hi vọng ấy lại bắt nguồn từ Italy – nơi có thánh thành – nơi vinh danh quyền lực của giáo hoàng – vị chức sắc tối cao của trần thế trông, lo phận sự cho con chiên. Tại sao tôi nói đó là điều bất ngờ?

    Bởi vì, tại thời điểm đó, Giáo hội Kito của Roma dường như chẳng mấy bận tâm đến sứ mệnh vinh danh chúa. Thay vào đấy, trong kinh đô Vatican, các hồng y (chủ yếu là người Italy) ngấm ngầm tiến hành các cuộc tranh đoạt quyền lực. Nghiêm trọng hơn, họ còn lấy uy quyền thần thánh của nước chúa trời lấn áp các quyền lực các quốc gia trần thế. Các giáo hoàng liên tiếp tạo ra các xung đột, chiến tranh trên toàn cõi châu Âu khi xây dựng những liên minh làm hổ danh Chúa. Tại Italy, mọi thứ còn tồi tệ hơn nhiều khi lần lượt các hồng y, giáo hoàng mang họ Medici, Borgia ngày một tha hóa quyền lực, can dự sâu vào sự chia rẽ các tiểu quốc trong lòng lãnh thổ quốc gia này

    Thế nhưng trớ trêu thay! Thời kỳ phục hưng lại được hình thành ngay giữa trung tâm tăm tối ấy. Nó khởi đầu từ thi ca của Boccaccio và Dante rồi nhanh chóng lan rộng sang mọi lĩnh vực. Thời đại ấy sản sinh ra vô cùng nhiều thiên tài kỳ quặc mà cho đến tận bây giờ các nhà khoa học không thể lý giải nổi: vì sao một họa sĩ có phần ẻo lả như Leonardo De Vinci lại có thể là bậc thầy về các loại vũ khí chiến tranh; Michaelangelo ngoài điêu khắc lại còn biết thiết kế các công trình công sự vĩ đại. Và con người kỳ lạ hơn cả trên đất nước Italia giai đoạn này bất ngờ là Machiavelli – một công chức bậc trung – người gần như đã chết trong sự lãng quên và xem nhẹ. Mấy ai ở thời điểm đó có thể tin rằng hậu thế lại suy tôn Machiavelli như ông tổ của triết học chính trị, bậc thầy về chủ nghĩa cơ hội, thực dụng cho đến niềm cảm hứng cho những gã độc tài phát-xít điên cuồng. Cuốn sách của Unger chính là kiến giải cho những con người đầy nghịch lý như thế.

    Machiavelli – Một công chức bất tài

    Thực vậy, cho dù chủ đề cuốn sách chỉ giới hạn phạm vi trong nghiên cứu tiểu sử về Machiavelli nhưng bằng nguồn tư liệu đồ sộ được khảo cứu cùng với tư duy viết sử khá mới mẻ và hiện đại, Unger đã tái hiện ra lịch sử của nước Ý từ cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVI qua việc bám sát dấu chân của nhân vật chính Machiavelli. Sinh ra trong một gia đình trung lưu của Cộng hòa Florence, Machiavelli đáng lẽ có thể tiếp tục cuộc sống bình yên như cha mình, một học giả nghiệp dư với thú vui sưu tầm và đọc sách. Nhưng khao khát được góp mặt trong bộ máy chính quyền, xây dựng Cộng hòa Florence trở thành một quốc gia hùng mạnh và tiến xa hơn là chinh phục nước Ý đã khiến Machiavelli cả một đời loay hoay trong những kế hoạch dang dở. Và thú thực, Machiavelli cũng không phải là một công chức giỏi giang gì. Ông ta thu về kẻ thù gấp nhiều lần đồng nghiệp. Mọi quý tộc, quan chức có thể lực cho đến các hồng y, giáo hoàng tại Vatican đều nghi ngờ về sự trung thành của Machiavelli. Tương tự, những đóng góp của Machiavelli khi làm công chức của Florence gần như cũng không để lại thành quả gì. Kế hoạch xây dựng lực lượng dân quân của ông gần như bị tan thành tro bụi. Mà không tan tành mới là chuyện lạ khi Machiavelli còn chẳng biết xây dựng chiến thuật, sắp xếp đội hình nữa là những chuyện cao xa hơn như tổ chức một cuộc chiến.

    Một công chức bất tài như Machiavelli có lẽ đã chìm sâu trong lịch sử nếu không có những tác phẩm kỳ lạ như Quân vương, Luận về Livy, Lịch sử Florence, Nghệ thuật chiến tranh… Đó là chưa kể những vở kịch, bài thơ được xem là xuất sắc bậc nhất thời kỳ Phục hưng tại Italy. Rất khó để xác định thể loại của những tác phẩm mà Machiavelli đã viết. Chúng nằm giữa lằn ranh của sử học, chính trị học, khoa học quân sự, luật học vv.

    Machiavelli cũng không phải là một công chức giỏi giang gì. Ông ta thu về kẻ thù gấp nhiều lần đồng nghiệp. Mọi quý tộc, quan chức có thể lực cho đến các hồng y, giáo hoàng tại Vatican đều nghi ngờ về sự trung thành của Machiavelli.

    Nhưng lại là một học giả uyên bác

    Trong các tác phẩm này, Machiavelli đã cho thấy mình là một học giả vô cùng uyên bác, cẩn trọng và có phương pháp, thao tác nghiên cứu đáng nể xét trong thời đại mà ông sinh sống. Nhưng quan trọng hơn, có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử phương Tây, mới có một nhà khoa học thực hiện một “cuộc cách mạng ngược”. Đó là xây dựng mô hình nhà nước “lý tưởng” dựa trên tình hình thực tế, người cầm quyền và nhận thức của nhân dân. Có lẽ, Marchiavelli cũng là người đầu tiên hiểu rằng nhân dân nào thì chính quyền vậy. Không đi theo các triết gia đi trước như Plato hay Aristotle, Marchiavelli chủ trương hướng đến xây dựng một quốc gia trần thế đích thực. Cũng vì vậy, ông ta chấp nhận cả việc xây dựng các mô hình quốc gia độc tài, cha truyền con nối cho đến cộng hòa. Tuy nhiên dù là mô hình nào, Machiavelli cũng hướng đến một quốc gia thượng tôn pháp luật và đặc biệt là vai trò của người đứng đầu. Người đứng đầu theo quan niệm của Machiavelli phải một người dũng cảm, mưu mẹo và trên hết là đặt các quyền lợi của quốc gia, đại sự lên trên các tư lợi cá nhân của mình. Đáng tiếc là theo nghiên cứu của Unger, các nhà cầm quyền tại Florence nói riêng và Italy nói chung chỉ chăm chăm giữ lấy và làm đầy thêm khối tài sản của mình. Họ sẵn sàng trở thành những kẻ ôm gót ngoại bang còn hơn tin tưởng vào những nông dân, thợ thuyền của mình. Tự do cho Italy với họ là một sự nguy hiểm. Cũng theo Unger, ngoài những tư tưởng về nhà cầm quyền, những đóng góp khác trên phương diện lý thuyết quân sự, triết học của Machiavelly là vô cùng quan trọng. Chẳng hạn như việc xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và đề cao vai trò của lính nghĩa vụ nay đã trở thành mô hình phổ biến tại nhiều Quốc gia bởi lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội mà nó mang lại.

    Dù là mô hình nào, Machiavelli cũng hướng đến một quốc gia thượng tôn pháp luật và đặc biệt là vai trò của người đứng đầu.

    Niềm tin mù quáng của   Machiavelli

    Giống hệt như một mẫu hình công chức đích thực, điều mà Max Weber vô cùng xem trọng, nhấn mạnh trong tác phẩm Chính trị Nghề nghiệp và xứ mệnh, rất tiếc cho đến thế kỷ XIX, những công chức mẫn cán như Machiavelli luôn luôn được coi như những kẻ phản diện bởi niềm tin mù quáng vào bộ máy chính quyền mà ông ta sẵn lòng phục vụ. Điều này có thể liên hệ với nhân vật Javert của V. Hugo. Sự mù quáng của Marchiavelli là niềm tin biến Italy trở thành một quốc gia thống nhất với Florence là một trung tâm chính trị. Và để thực hiện điều đó, ông ta không từ một thủ đoạn nào từ việc chạy theo các nhà dân túy, phe quý tộc, phe cộng hòa cho đến bám chân các giáo hoàng tha hóa, đặc biệt là Clement. Tuy vậy, như đã biết phần lớn quãng đời của Machiavelli chỉ dừng lại ở một công chức tầm thường. Không ai trọng dụng ông cả. Bởi vậy những mối ác cảm về Machiavelli , những tội lỗi mà người ta gán cho ông dường như chỉ là một sự phóng đại, che giấu đi một sự thật tàn khốc: sách của Machiavelli đã đánh trúng tim đen của nhiều kẻ cường quyền . Và tội lỗi duy nhất mà Machiavelli mắc phải là đã nói đúng lại còn nói to.

    Những tội lỗi mà người ta gán cho ông dường như chỉ là một sự phóng đại, che giấu đi một sự thật tàn khốc: sách của Machiavelli đã đánh trúng tim đen của nhiều kẻ cường quyền . Và tội lỗi duy nhất mà Machiavelli mắc phải là đã nói đúng lại còn nói to.

    Sau cùng, tên tuổi của Machiavelli cũng được vinh danh từ quê nhà Florence cho đến nhiều quốc gia trên thế giới. Trớ trêu thay đó là lúc những nghiên cứu của ông gần như chỉ là những cuốn sách đọc vì mục đích giải trí. Các bộ máy nhà nước, các lý thuyết quyền lực đã vượt rất xa những nhận định của Machiavelli. Những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái đôi khi khiến người ta sẵn sàng trả giá bằng máu và nước mắt để đạp đổ cường quyền thay vì sống trong một sự im lặng vì khủng bố từ tha hóa quyền lực. Và cũng may mắn khi những nghiên cứu và nhận định của Machiavelli gần như bị bỏ quên, hoặc đọc với thái độ xem thường trong hầu hết thời gian mà nó hiện hữu. Nếu không ta thực sự không biết rằng thế giới sẽ đi về đâu nếu chạy theo tư duy của Machiavelli.

    Hải Đăng

  • Hãy tránh xa người nói với bạn về sự hy sinh

    Hãy tránh xa người nói với bạn về sự hy sinh

    Ayn Rand như muốn dồn nén cả cuộc đời con người vào cuốn tiểu thuyết Suối nguồn. Bà nói về một cuộc đời với tất cả những gì chúng ta sẽ phải trải qua. Đó là tình yêu, là tình bạn, là tri kỷ, là lý tưởng, lẽ sống, quyền lực, là những mảng màu đen tối của xã hội và bản thân con người. Đó còn là những hệ tư tưởng của thời đại…

    Người đọc sẽ ít nhiều thấy mình trong đó, thấy cái mình đã trải qua, thấy điều mình sắp phải đối mặt, thấy cả những khao khát thầm kín qua từng trang viết. Ayn Rand viết như thể rút hết mọi khoảnh khắc và kinh nghiệm sống trong cuộc đời mình để làm nên cuốn tiểu thuyết, cô đọng hết cả số phận của con người qua nghìn trang giấy. “Suối nguồn” có lẽ vì thế mà vĩ đại và lớn lao.

    Đừng bao giờ hy sinh cuộc đời mình cho tình yêu

    Tình yêu rồi rốt cuộc cũng chỉ còn là “Nếu Anh muốn nói yêu em thì trước tiên anh phải nói từ “Anh” trước đã”. Triết lý đó có làm ai đó vỡ ra điều gì? Có nhắc nhở ai đó một bài học về sự hạnh phúc.

    Thực sự là, chúng ta không thể cho đi cái mà mình không có. Để yêu một người trước tiên chúng ta phải yêu mình cái đã. Ayn Rand tạo nên một tình yêu mãnh liệt giữa Howard Roar và Dominique rồi cũng chỉ để chỉ cho chúng ta thấy chúng ta phải trân trọng bản thân mình, phải tạo ra hạnh phúc cho chính bản thân mình trước khi muốn mang lại hạnh phúc cho người khác.

    Thật vậy: “Loài người được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà phải là cho đi một cái gì đó. Nhưng một người không thể cho đi những cái gì mà anh ta không tạo ra.”

    “Loài người được dạy dỗ rằng đức tính tốt đẹp nhất không phải là đạt được một cái gì đó mà phải là cho đi một cái gì đó. Nhưng một người không thể cho đi những cái gì mà anh ta không tạo ra.”

    Đôi khi cuộc đời mụ mị chúng ta bằng quá nhiều tính từ đẹp đẽ: sự hy sinh, sự cho đi, sống vì người khác. Trong số chúng ta, ai cũng từng là một kẻ mụ mị. Mụ mị khi nghĩ rằng  sẽ từ bỏ cái gì đó để đem lại hạnh phúc cho một người, ngốc nghếch khi nghĩ rằng sẽ hy sinh cái phần sức sống nhất của mình để giữ gìn cái gọi là hạnh phúc.

    Từ hy sinh – một từ nghe như đức hạnh, nghe thật mĩ miều, thật khiến cho con người ta kính nể…Nhưng không, chúng ta phải sớm nhận ra một điều rằng, nếu ai đó nói với bạn về sự hy sinh – hãy tránh xa người đó. Hãy bỏ chạy thật nhanh, hãy giữ đầu óc mình tỉnh táo, để biết rằng: “ở đâu có sự hy sinh, ở đó có người nhận sự hy sinh. Người nói với chúng ta về sự hy sinh chính là người đang nói về đầy tớ và ông chủ. Và người đó muốn trở thành ông chủ – nhận những sự hy sinh như một lẽ thường tình, là một điều hiển nhiên”.

    Mà chúng ta – đặc biệt là phụ nữ chúng ta, thường chấp nhận hy sinh tuổi trẻ, ước mơ, cá tính, sở thích…cái đã làm nên chúng ta – cho một ai đó, một điều gì đó mà cả xã hội đang khăng khăng bảo vệ. Ví như khái niệm “một gia đình êm ấm”, chẳng hạn.

    Quả thực chúng ta không tồn tại vì ai cả và chúng ta cũng không yêu cầu ai phải sống cho chúng ta, đem đến hạnh phúc cho chúng ta. Và Rayna đã nói thế này: “Điều đức hạnh nhất mà con người có thể làm cho nhau và cái thỏa thuận duy nhất cho mối quan hệ hợp lý giữa người với người là – Buông nhau ra!”

    “Điều đức hạnh nhất mà con người có thể làm cho nhau và cái thỏa thuận duy nhất cho mối quan hệ hợp lý giữa người với người là – Buông nhau ra!”

    Dám sống với những đam mê

    Howard Roar – kẻ đã thức tỉnh khái niệm đam mê trong tôi. Chúng ta có vẻ dễ dàng cho rằng mình là một kẻ có ước mơ, có đam mê, có mục đích. Nhưng đã bao giờ chúng ta dám sống khổ sống sở vì đam mê như Roar chưa?

    Ba năm đầu đời sau khi bị đuổi ra khỏi cánh cổng của trường Đại học, anh sống lay lắt qua ngày, chịu đau đớn và tủi cực chỉ để được học nghề từ một tay kiến trúc sư bị cả xã hội cho rằng bất tài, vô dụng.

    Nhiều năm sau đó anh tiếp tục đói nghèo, cuộc sống của anh là những tờ hóa đơn không có khả năng thanh toán, là một khu ổ chuột cũng không còn chấp nhận để anh trú chân. Nói một cách thường tình là “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”. 3 năm là bao nhiêu ngày, nhiều năm sau nữa là bao nhiêu ngày, liệu chúng ta có đủ sức để đương đầu với cuộc đời vì hai chữ “đam mê”.

    Đối mặt với tất cả những thực tiễn khắc nghiệt đó của cuộc đời, đam mê chỉ đem lại cho chúng ta một điều duy nhất đó là cảm giác về sự hoan hỉ, sinh sôi, về niềm tin chiến thắng không gì ngăn cản nổi. “Đó là cảm giác khi thấy những nhánh cây đầu tiên, những chồi non đầu tiên nhú trên cành cây, màu xanh đầu tiên trên bầu trời”. Chỉ thế thôi, có vẻ đó là một cuộc chiến không cân sức. Nhưng người chiến thắng trong cuộc chiến đó là người sẽ không bị quật ngã bởi bất cứ điều gì trong đời.

    Đam mê chỉ đem lại cho chúng ta một điều duy nhất đó là cảm giác về sự hoan hỉ, sinh sôi, về niềm tin chiến thắng không gì ngăn cản nổi.

    Đọc Suối nguồn chúng ta được thấy cả những điều bẩn thỉu nhất trong một cá nhân con người, những điều hèn hạ và đốn mạt nhất trong một lối sống. Suối nguồn cũng cho chúng ta thấy quyền lực là một điều muôn đời hấp dẫn với con người và cũng muôn đời gây nên tội lỗi. Suối nguồn dựng lại cả những tư tưởng cơ bản trong thời đại của chúng ta… Mỗi người khi đọc cuốn tiểu thuyết vĩ đại này sẽ có những thấm thía và cả sự thức tỉnh riêng của mình.

     

     

     

     

  • “Bến không chồng” – Những lầm lạc thời hậu chiến

    “Bến không chồng” – Những lầm lạc thời hậu chiến

    “Bến không chồng” lấy bối cảnh làng Đông – một làng quê với những cảnh sắc và phong tục đặc trưng miền Bắc Bộ. Ở đó, có mối hận thù truyền kiếp giữa dòng họ Nguyễn và họ Vũ, có những phận người rơi vào tận cùng khổ đau do những hủ tục, lạc hậu của một xã hội nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún.

    Mặt trái của những tấm huân chương

    Nguyễn Vạn – người lính Điện Biên trở về với dấu tích oanh liệt là vết thương trên bả vai và một ống chân bị gẫy. Ngày ra đi Vạn mang lý tưởng cống hiến đời mình cho Tổ quốc.  Suốt những năm ở chiến trường, anh đã chiến đấu đầy dũng khí và chưa một lần phải hổ thẹn với lời thề ngày ra đi. Khi Vạn trở về,  anh lại muốn làm mực thước, làm thánh nhân để xứng đáng với sự ngưỡng mộ của dân làng và đã hy sinh một đời cho ảo tưởng đó trong cuộc sống khắc kỷ đến ngốc nghếch, đáng thương.

    Về với cuộc sống làng Đông, Vạn đem lòng yêu thương chị Nhân và 3 đứa con của chị. Đối với Vạn mọi sự gần gũi với gia đình chị Nhân đều xuất phát từ bản năng tự nhiên với những tình cảm thật thà, nồng ấm. Vạn thực tâm muốn trở thành chỗ dựa cho người đàn bà hiền lành tốt tính mà chẳng may chồng lại sớm hy sinh trên chiến trường. Nhưng khi mọi thứ vừa chớm nở thì làng quê đã xì xào, người trong họ đã bất bình, cấm đoán. Vạn lại luôn nghĩ rằng, danh dự của người lính, của người đảng viên không cho phép anh gần  gũi chị Nhân, là người con họ Nguyễn, mối thù truyền kiếp với nhà họ Vũ lại càng ngăn bước anh. Vậy là cả cuộc đời anh phải kìm nén lòng yêu thương và sống trong suy nghĩ:  “Lòng yêu thương chị Nhân là do những phút giây yếu hèn không kìm nén được….Điều ấy là lỗi lầm đáng tiếc không xứng đáng với người chiến sỹ cách mạng, không xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của dân làng, họ mạc”

    Lòng yêu thương chị Nhân là do những phút giây yếu hèn không kìm nén được….Điều ấy là lỗi lầm đáng tiếc không xứng đáng với người chiến sỹ cách mạng, không xứng đáng với lòng ngưỡng mộ của dân làng, họ mạc”

    Để sống với lý tưởng của mình, Vạn không chỉ chôn giấu tình cảm mà còn dũng cảm làm những điều chẳng ai dám làm. Vạn là người duy nhất ở làng, sẵn sàng xung phong đập phá đình Đông để xây dựng Uỷ ban vì anh nghĩ “người chiến sỹ cách mạng không được tin vào ma quỷ”. Cái đáng sợ nhất với anh là để mất lòng tin với dân với Đảng. Anh cũng là người gạt mọi tình cảm ruột thịt để tự tay bắn vào đầu 2 người chú khi họ  phạm lỗi với chính quyền. Với Vạn, “nếu bố còn sống mà có tội, Nguyễn Vạn cũng không dung tha”.

    Nguyễn Vạn đã dành cả cuộc đời để sống cho lý tưởng, sống vì danh dự một cách ngốc nghếch và đáng thương như thế. Nhưng rồi cuối cùng, anh cũng không thể chiến thắng bản năng. Cuối cùng, trong một cơn say, anh đã buông thả cho thân xác tự do gây tội lỗi trên cơ thể  rừng rực của người đàn bà. Đó là lần đầu tiên trong đời Vạn. Nhưng bi kịch thay, người đó lại là Hạnh – con gái chị Nhân – đứa bé mà Vạn đã coi như con gái, trọn một lòng anh chăm sóc, nâng niu.

    Bi kịch của những “hòn vọng phu”

    Hạnh là cô gái đẹp nhất nhì làng Đông. Tình yêu của Hạnh và Nghĩa được nảy nở, xây đắp trên chính mảnh đất quê hương. Một tình yêu trong sáng, sôi nổi đầy tha thiết. Ngày Hạnh được Nghĩa đưa về về xin ý kiến cha mẹ, ông bà Khiên coi như là “rước voi về giày mả tổ” vì hai dòng họ đã có mối thù hận từ ngàn đời. Nhưng trong lòng Hạnh lại bùng lên ngọn lửa muốn thiêu cháy tất cả mọi hận thù giữa hai dòng họ để được yêu Nghĩa. Hạnh và Nghĩa quyết đến với nhau dù phải chịu bao thiệt thòi bởi sự cấm cản từ gia đình, họ tộc.

    Bi kịch thực sự đến với cuộc đời Hạnh khi Nghĩa trở thành người lính. Mười năm ròng, Hạnh mỏi mòn đợi chờ trong lo âu khắc khoải. Mười năm đằng đẵng chờ chồng, Hạnh cô độc, gồng mình chống chọi sự hận thù với những lời đay nghiến, rủa xả của anh em nhà  chồng và người dân làng Đông. Chú Xeng nói xanh rờn“Chừng nào con Hạnh còn ở trên đất từ đường thì tai họa còn xảy ra”.

    Hoà bình lập lại, chồng mang vinh quang về ngỡ tưởng sẽ sung sướng nhưng Hạnh lại càng khổ hơn  bởi mãi mà cô chẳng thể có con. Hạnh ngày càng mỏi mòi đi cùng với nỗi  hoang mang lo sợ. Mẹ Nghĩa nhìn Hạnh với đôi mắt lạnh lẽo. Người dân làng Đông cũng không nhìn cô bằng cái nhìn nồng ấm như xưa. Có người còn nói rằng: “Phu nhân đại tá  bị điếc”. Vậy nhưng tất cả mọi người đều không hay biết nguyên nhân việc Hạnh không thể có con xuất phát từ Nghĩa, anh nhiễm chất độc da cam từ những ngày còn ở chiến trường.

    Cuộc hôn nhân đầy mê say của Hạnh đi đến kết thúc khi Nghĩa ngả vào lòng người phụ nữ khác. Ông trời run rủi đẩy Hạnh buộc phải biết mối tình vụng trộm giữa Nghĩa và Thuỷ. Hạnh quay trở về, dứt khoát  li hôn với đầy nỗi cay đắng tủi nhục. Suốt 10 năm đằng đẵng làm vợ Nghĩa, ngày về nhà mẹ đẻ, cô chỉ  có một chiếc rương gỗ cũ kĩ mang đi.  Ngày hai người ra toà, Nghĩa dành lại ba gian nhà mái bằng trên nền từ đường cho Hạnh rồi cùng mẹ lên tỉnh. Hạnh lại tự trách bản thân vì nghĩ rằng Nghĩa vì mình mà bỏ đi.

    Bi kịch của cuộc đời Hạnh đâu dừng lại tại đó. Trong đau khổ cùng cực, cô ngã vào vòng tay chú Vạn. Cô mang trong mình giọt máu với Vạn rồi bỏ làng đi biệt tích. Đến cuối cùng cô vẫn phải trở về, ước nguyện sống những ngày bình an còn lại trong cuộc đời. Ngỡ tưởng ông trời sẽ bù đắp lại cho Hạnh vì những đau khổ mất mát cô trải qua, nhưng rốt cuộc, ngày cô trở về, đưa con gái về với cha của nó, thì cũng là ngày con mất bố, chú Vạn vì cùng quẫn, xót xa, xấu hổ đã tự vẫn.  Số phận người phụ nữ đẹp nhất nhì làng Đông chưa một ngày được hạnh phúc trọn vẹn.

    Số phận người phụ nữ đẹp nhất nhì làng Đông chưa một ngày được hạnh phúc trọn vẹn.

    Ở làng Đông còn nhiều cảnh ngộ khác cũng đau khổ như Hạnh. Dâu, cô gái tươi trẻ, mạnh mẽ và cá tính, tưởng cuộc đời sẽ chỉ vang giòn những chuỗi cười vui, nhưng rốt cuộc lại sống cô đơn góa bụa. Ngày ngày Dâu lặng lẽ đi chùa bên những bà già bỏm bẻm nhai trầu. Mụ Hơn từng là cô gái xinh đẹp hát hay nức tiếng ở miền quan họ, về làng Đông làm dâu nhà hào môn chưa được mấy ngày thì bị đấu tố, bố chồng bị bắn chết, chồng cắn lưỡi tự tử, con bị bọn trẻ coi khinh đánh đập. Chiến tranh, những chàng trai sức vóc cường tráng đều ra trận, Thắm – cô gái đẹp rực rỡ của làng Đông, đã lấy Huy, một thợ chụp ảnh thọt chân, nhưng chẳng bao lâu phải vỡ mộng uyên ương vì thói trăng hoa của chồng. Rồi Thắm yêu một chàng pháo thủ. Hòa bình, anh vào Nam biệt tích, không hề biết đêm vụng trộm duy nhất của hai người đã để lại một đứa con…

    Dương Hướng đã khắc họa rất thành công bi kịch của những nhân vật nữ trong Bến không chồng. Bi kịch của những người cả quãng đời thanh xuân bị mưa bom bão đạn vùi lấp, mỏi mòn làm núi Vọng phu ngóng đợi, chờ trông. Nhưng trớ trêu thay, bi kịch cuộc đời họ vẫn nối dài dù bom đạn đã ngừng rơi.

    Một bức tranh buồn về nông thôn Việt Nam

    Trong tác phẩm “Bến không chồng” của Dương Hướng, người đọc không chỉ thấy những cảnh đời, những số phận con người sau cuộc chiến mà còn có thể hình dung về diện mạo, nếp sống của nông thôn Việt Nam trong thập niên 80, 90.

    Có một thời kỳ mà dân làng muốn bán con trâu phải lên xã xin ông chủ tịch. Ông chủ tịch thì “cầm tờ giấy trên tay mà không nhận ra mình cầm ngược đọc”. Cũng đã có một thời bao số phận điêu đứng vì phong trào cải cách ruộng đất, chia lại ruộng đất nông thôn, xoá bỏ địa chủ, cường hào…Câu chuyện đấu tố gia đình địa chủ Hào được Dương Hướng kể lại vô cùng xót xa.  Dân quân đánh ông địa chủ đến “phọt cứt” để tìm hai mâm đồng còn thiếu. Thằng Công con địa chủ Hào vì thế mà cắn lưỡi tử tự. Trong không khí rầm rộ của cuộc đấu tố, ông chủ tịch nhất định  phải giao cho thằng Thước con cưng của địa chỉ Hào việc xử bắn bố mình, Vạn nhất định phải bắn vào chú Xèng chú Xình để chứng tỏ lập trường giai cấp.

    Sau cuộc đấu tố, có người đã phát điên vì con mình bị xử bắn. Những đứa con của địa chủ phải sống cuộc đời khốn khổ khi bị bạn bè trang lứa đánh đập, coi khinh. Con dâu địa chủ Hào chắp tay xin lạy Vạn giúp đỡ để con bà không bị con của mấy ông bà nông dân đánh đập “con chắp tay lạy ông trăm lần ngàn lần đừng ghét bỏ nó, đừng để các con của ông bà nông dân đánh nó. Con nhìn thấy các ông con của ông bà nông dân đánh nó, xử tội nó mà không dám hé  răng nửa lời. Con sợ ông bà nông dân lại nói con là chống đối giai cấp nghèo khổ. Con xin hứa sẽ nuôi dậy nó thành người nghèo khổ”

    Con nhìn thấy các ông con của ông bà nông dân đánh nó, xử tội nó mà không dám hé  răng nửa lời. Con sợ ông bà nông dân lại nói con là chống đối giai cấp nghèo khổ. Con xin hứa sẽ nuôi dậy nó thành người nghèo khổ”

    Đó là nếp tâm lý, ý thức còn nguyên sự hủ lậu, chưa thể nào thay đổi được trong một xã hội nông nghiệp manh mún, lạc hậu. Và đó cũng là nguyên cớ cho mọi tai hoạ mà con người phải chịu đựng trong một thời gian dài như một áp đặt của định mệnh, cho đến lúc nhờ vào những gì chuyển giao giữa hai thập nên 80 và 90 mới bừng tỉnh.

     

  • “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”

    “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”

    Một giai đoạn lịch sử không thể nào quên

    Cuốn hồi ký “Những chặng đường lịch sử” sẽ giúp người đọc hình dung lại một thời điểm lịch sử, khi công cuộc cách mạng còn trong trứng nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những người con ưu tú của Đảng đã đặt những viên gạch đầu tiên cho phong trào cách mạng. Có lẽ ít ai hình dung được rằng, chỉ với số ít cán bộ cốt cán, điều kiện vật chất thô sơ mà lại có thể gây dựng được phong trào rộng khắp trong quần chúng, làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945.

    Từng bước một, phong trào lớn mạnh dần lên. Từng trang hồi kí của Đại tướng luôn thấm đẫm cảm xúc. Lịch sử giờ đây không còn là những con số, những sự kiện, ngày tháng khô khan. Như lúc viết về sự kiện thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, có những dòng viết cứ in sâu vào tâm trí người đọc.

    Đại tướng đã viết“tâm tư của chúng tôi trong những giờ phút thiêng liêng đó thực khó tỏ. Bao chiến công oanh liệt của ông cha ta đời trước, của các chiến sỹ cách mạng, của nhân dân ta, phút chốc hiện ra rực rỡ trong ký ức. Nợ nước, thù nhà, oán hờn dân tộc, căm thù giai cấp, làm cho máu nóng trong người sắp sôi lên. Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đó là cả một đội quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục  nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù. Tin tưởng, náo nức, cảm động.” 

    Chúng tôi quên đi chúng tôi là ba mươi tư con người với những súng ống thô sơ, mà thấy đó là cả một đội quân gang thép, rắn chắc, không sức mạnh nào khuất phục  nổi, sẵn sàng quật nát kẻ thù.

    Cuốn theo từng dòng viết của Đại tướng, chúng ta sẽ đến được ngày vui thắng lợi. Người đọc cũng sẽ hân hoan, sẽ xúc động trào nước mắt với những dòng viết chứa chan tình cảm.“Suốt các phố xá, các làng mạc ven đường, đâu đâu cũng rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Lá cờ đỏ chói như ngọn lửa tin của những người cách mạng, xuất hiện lần đầu trong khởi nghĩa Nam kỳ và sau đó lại tung bay trên núi rừng Việt Bắc, bây giờ đã tô thắm cho cả đất nước, báo tin cách mạng thành công”… “ Bên kia là thủ đô chói chang cờ đỏ. Nhìn quang cảnh nước nhà đổi thay, nhân dân vừa thoát khỏi ách đau thương của gần một trăm năm đô hộ, nô nức đón chào ngày giải phóng dân tộc, vui sướng trào lên trong chúng tôi, mừng muốn ứa nước mắt”. Cuốn hồi ký thực sự là một nguồn sử liệu vô cùng quý giá.

    Chân dung một con người vĩ đại

    Mỗi một diễn biến trên thế giới đều có tác động to lớn vào tình hình cách mạng Việt Nam. Hồ Chủ tịch là một nhà chiến lược tài ba khi Người luôn phân tích, đưa ra chủ trương, đường lối, sách lược phù hợp với từng thời điểm. Trong giai đoạn tiền khởi nghĩa, từ việc phân tích kẻ thù của chúng ta là ai, chọn Cao Bắc Lạng là căn cứ địa cách mạng có vai trò quan trọng như thế nào…rồi khi tổng khởi nghĩa thắng lợi, chúng ta phải làm sao trước tình cảnh đất nước chưa lúc nào phải đối diện với nhiều kẻ thù đến như vậy…

    Ngay từ đầu, đường lối, sách lược Người đưa ra đã khiến cho tất cả mọi người tin rằng: “ông cụ mảnh khảnh này là người gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam”. Xuyên suốt cuốn hồi ký, qua những sự kiện lịch sử như vậy, Đại tướng đã tái hiện lại khá trọn vẹn chân dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vừa hùng vĩ mà giản dị, thiêng liêng mà gần gũi, rực rỡ mà thuần khiết như ánh ban mai.
    Bởi vậy, cả dân tộc ta, chỉ bằng gậy tầm vông và dáo mác thô sơ, đã đứng lên cùng Người với một quyết tâm lớn, một  khí thế mạnh, một tinh thần diệt thù cứu nước, hy sinh dũng cảm tuyệt vời, lập nên những chiến công lớn ngay trong những điều kiện gian khó nhất.

    Dưới ngọn cờ Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã vượt qua muôn vàn gian khổ, bền bỉ,  kiên trì, để càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, tiến lên trên con đường dẫn tới một mùa xuân của dân tộc, tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”.

    “Cố ráng sức qua mùa đông lạnh lẽo thì ta sẽ được gặp mùa xuân”.